Ngày xưa, có một thư sinh nghèo học hành rất
giỏi, hy vọng thế nào rồi cũng được đỗ cao, làm nên nghiệp lớn.
Chàng rất sáng dạ, học đâu nhớ đấy, tấn tới lạ thường, thầy dạy
cùng bạn bè đều mến phục. Thông thuộc hết kinh sử, chàng lại có
tài làm thi phú rất hay.
Thuở bấy giờ người ta vẫn tin là học tài thi phận và kẻ sĩ muốn
vược thang mây th́ phải làm việc bố thí hoặc điều thiện trước
lúc thi cử. Chàng thư sinh nghèo quá không làm được việc bố thí
mới nghĩ đến cách làm điều thiện. Một hôm trong khi dạo chơi
ngoài đồng, chàng thấy một lũ trẻ chăn trâu đang reo ḥ kéo một
con chạch lớn, bàn tính với nhau làm thịt nướng ăn. Thấy bộ dạng
buồn bă của con vật sắp chết, hai mắt ứa lệ, thư sinh liền nghĩ
ngay đến việc làm điều thiện, bỏ ra đồng tiền dành dụm được bấy
lâu để mua lại con chạch của lũ trẻ. Xong rồi chàng đưa con vật
đến bờ sông cái để phóng sinh, sau khi nhắn nhủ nó rằng:
"Chạch ơi, người ta thường bảo "cứu vật vật trả ơn, cứu nhơn
nhơn trả oán", ta cứu sống cho mày hôm nay, mong rằng kỳ thi năm
tới may sẽ nhớ ơn phù hộ cho ta làm văn trôi chảy và đỗ đạt vẻ
vang".
Sau khi thả con chạch xuống sông, thư sinh yên ḷng trở về, ngày
đêm đèn sách hăng hái thêm lên. Kỳ thi gần tới, chàng lạy bàn
thờ tổ tiên và cha mẹ rồi vác lều chơng ra kinh đô. Ai cũng nghĩ
là với tài học xuất chúng như chàng ắt thế nào cũng được ghi tên
bảng vàng, song trái với ước vọng của cha mẹ cùng thày bạn,
chàng liên tiếp bị trượt mấy kỳ thi ở cả ba trường. Không nản
chí, chàng ở lại kinh đô t́m thầy danh tiếng để dùi mài kinh sử
mà chờ khóa tới. Khoa thi sau chàng cũng hỏng luôn ở cả ba
trường như kỳ đầu. Tủi hổ, chán nản, chàng t́m đường trở về làng.
Đến ngang bến đ̣ con sông cái năm xưa chàng đă phóng sinh cho
con chạch, thư sinh không khỏi ngạc nhiên thấy ở hai bên bờ có
nhiều điếm quân canh gác cẩn mật. Hỏi ra mới biết là ở quăng
sông này có một con chạch rất lớn hóa thành măng xà, thường đón
người qua lại đây để ăn thịt. Thư sinh nghe nói thế đâm ra nghi
hoặc, tự bảo thầm rằng có lẽ con quái vật này chính là con chạch
chàng đă cứu nạn cho năm nào. Như vậy, hai kỳ thi vừa rồi chàng
bị trượt cũng là hậu quả của việc chàng làm, ngỡ là lành hóa gây
ra hung dữ. Những hành động quái ác của con chạch yêu tinh đă
vang lên tới Thiên Đ́nh, thư sinh phải gánh chịu lấy trách nhiệm.
Sau một hồi suy nghĩ trên kia, thư sinh nài nỉ với người lính
canh để cho chàng qua sông. Người lính bảo phải đợi cho khách
quá giang đông đă, rồi toán quân cầm sẵn giáo, ŕu theo hộ tống,
bấy giờ sang ngang mới có thể chống trả lại khỏi làm mồi cho con
quái vật. Thư sinh yêu cầu ra đi một ḿnh, rủi ro xin chịu lấy,
viện cớ là có việc gấp không thể chờ đợi được, rồi năn nỉ măi
người lính mới cho xuống thuyền.
Ra đến giữa sông, chiếc thuyền bỗng nhiên cḥng chành đầu lái
như muốn lật, từ mặt nước con quái vật nhô đầu lên, há miện lớn
chực nuốt người. Chàng thư sinh vội lớn tiếng bảo nó:
"Mày không c̣n nhớ tao hay sao? Có phải mày là con chạch đă được
tao cứu mạng cho khỏi tay lũ trẻ chăn trâu độ trước, rồi mày lại
đội lốt để mày làm hại người ta không?"
Măng xà đáp:
"Đúng đấy, nhưng tao phải ăn thịt mày".
Thư sinh liền nói:
"Hăy nghe đây đă. Mấy năm trước, sở dĩ cứu sống cho mày ở khúc
sông này, tao có nói cho mày biết là v́ tao tin ở sự biết ơn của
loài vật "cứu vật vật trả ơn, cứu nhơn nhơn trả oán". Bây giờ
mày trả ơn tao như thế phải không?"
Măng xà căi:
"Lầm rồi, phải hiểu là "cứu vật vật trả oán" mới đúng. Thôi đừng
chữ nghĩa lôi thôi nữa, để tao ăn thịt mày cho rồi".
Thư sinh nói:
"Khoan đă, trong đôi bên chưa biết ai có lư. Phải kiếm ai phân
xử mới được: nếu họ bảo mày có lư th́ tao xin bằng ḷng cho mày
ăn thịt. Chỉ cần hỏi ba lần thôi, bất cứ gặp người hay loài vật,
ba kẻ đầu tiên chúng ta đi gặp đây, là ba kẻ phân xử, quyết định
cho chúng ta xem ai có lư".
Măng xà nhận lời, trồi lên mặt nước để đi theo thư sinh t́m ba
người phân xử. Kẻ thứ nhất họ gặp là một con trâu già yếu đang
gặp cỏ bên bờ ao. Thư sinh kể đầu đuôi câu chuyện rồi hỏi xem ư
kiến của trâu thế nào về câu phương ngôn: "Cứu vật vật trả ơn,
cứu nhơn nhơn trả oán".
Con trâu phần sợ rắn, phần xấu bụng muốn trả thù những sự hành
hạ của người ta đối xử với nó bấy lâu, mới trả lời rằng:
"Câu phương ngôn ấy sai, ư nghĩa trái ngược lại mới đúng, v́
loài vật ngu ngốc không biết phân biệt điều thiện với điều ác,
loài vật không có trí khôn như người ta mà chỉ nghe theo thú
tính".
Nghe nói thế, măng xà chồm lên toan ăn thịt thư sinh, chàng bèn
nhắc lại điều kiện đă giao kết, rồi cả hai lại tiếp tục đi. Đi
được một lúc, họ gặp một con cá gáy (chép) to lớn lâu năm sắp
hóa thành tinh. Nghe hết tự sự và câu hỏi ḍ ư kiến trên, cá
cũng trả lời như trâu. Thư sinh bắt đầu lo ngại cùng măng xà lại
ra đi. Kẻ thứ ba mà cuối cùng họ gặp trên đường là một người già
cả, râu tóc bạc phơ. Ông cụ này không ai khác hơn là Phật Thế
Tôn ở trên trời nghe thấy rơ mọi việc xảy ra giữa chàng thư sinh
với con măng xà bạc ác cùng những lời lẽ của trâu và cá gáy,
liền hóa ra một ông lăo để gặp họ. Sau khi nghe thuật lại đầu
đuôi câu chuyện tranh chấp giữa đôi bên, Phật liền mời cả hai về
nhà. Phật dùng phép thần thông gọi trâu cùng cá gáy đến đủ mặt,
rồi cả năm bước vào nhà Phật, một ngôi chùa. Qua khỏi cửa chùa
ông lăo trở lại nguyên h́nh Phật Thế Tôn, ngỏ lời bênh vực cho
lẽ phải của thư sinh, nghiêm khắc lên án sự bội bạc vô ơn của
măng xà, cùng sự xấu bụng của trâu và cá gáy. Rồi để trừng phạt
cả ba con, Phật bắt măng xà hóa ra cái chuông, trâu hóa thành
cái trống, cá gáy hóa thành mơ. V́ thế từ đó giá chuông nhà chùa
đúc theo h́nh con rắn, trống bịt bằng da trâu và mơ làm theo
h́nh cá gáy. Để nhắc nhở các nhà tu hành nhớ sự tích này mà luôn
luôn giữ lấy ḷng ngay thật hiền lành, bất cứ ngày đêm mỗi lần
đọc kinh đều phải gơ vào ba vật nói trên.
o0o
|