Tháng Giêng Cỏ Non  - Mai Thảo      
Cách đây 18 năm, Sạng bỏ quê hương, một thôn xóm bé nhỏ miền duyên hải Bắc Việt, vào Nam kỳ. Chuyến đi của anh Sạng ngày ấy như một chuyến đi phát văng biệt xứ và anh Sạng lúc xa ĺa bóng tre làng cũ lên đường vào đất Nam kỳ xa xôi, anh đă cầm bằng là sẽ gửi nắm xương trên một mảnh đất nào ở xứ lạ. Anh Sạng đi làm phu đồn điền cao su.

Hồi ấy, tôi mới có tám tuổi. Ngày anh Sạng đi đến nay tôi chỉ c̣n nhớ

được qua những h́nh ảnh rất nhạt thoáng, bóng dáng người mẹ anh khóc sướt mướt chạy theo anh lên tận chân đê đầu làng, túm áo anh van xin anh ở lại. Ở lại mà làm ăn. Mà cầy bừa. Mà thương lấy một người đàn bà c̣n trẻ dại đă có với anh hai đứa con thơ.

Nhưng rồi anh Sạng cũng vẫn đi Nam kỳ. Đôi mắt ấu thơ của tôi ngày ấy đă nh́n thấy những ấn tượng khá buồn thảm: bóng anh Sạng xa khuất dần trên con đê heo hút, người mẹ khóc rũ xuống, bước chân xiêu đổ trên con đường về và qua nhà tôi, người đàn bà hiền lành đă chạy vào ngồi trên bục cửa mà khóc như mưa như gió.

Tôi c̣n nhớ mụ bảo tôi:

“Chú Thảo ơi, thằng Sạng nó bỏ vợ bỏ con nó đi Nam kỳ rồi”.

Một lát sau, chị Sạng tay bồng hai đứa trẻ nhỏ cũng chạy đến. Thế rồi cả cái gia đ́nh đáng thương ấy đă ngồi quây lấy nhau mà khóc cái tan vỡ gây nên bởi một người bỏ đi Nam kỳ. Hồi ấy tôi chưa hiểu ǵ đến phân ly. Càng không hiểu Nam kỳ là ǵ nữa. Người làng xóm nhắc nhở th́ thầm đến Tân Thế giới, đến Nam kỳ, đến đời sống hăi hùng của những người phu dưới bóng lá tối thẳm của những đồn điền cao su và đất Nam kỳ đă hiện ra trong tưởng tượng thơ ngây đơn giản của tôi như một ḥn đảo nào xa dạt có những bến bờ hoang vu và đầy gió băo.

Trong cái thôn xóm nhỏ bé của quê tôi, một vài năm lại có một vài người, thường là một gă con trai, động ḷng bốn phương th́ ít, v́ chuyện này chuyện nọ th́ nhiều, bỗng dưng một buổi bỏ làng đi Nam kỳ. Chuyến đi nào cũng chứa đựng một cái ǵ tối tăm thê thảm. Người làng coi những người bỏ đi như những kẻ điên dại cùng cố, đă mất hết lẽ phải.

“Bọn mày đă dở chứng. Muốn hoá điên hay sao mà đi chứ? Tự dưng bỏ làng bỏ nước đi biệt vô tăm tích, có chăng là đồ hoá dại!”

Riêng anh Sạng, cái nguyên nhân bỏ đi của anh về sau tôi hỏi và mẹ tôi có thuật lại. Số là anh Sạng bị làng xóm láng giềng nghi ngờ là đă ra tỉnh báo Tây đoan về bắt rượu lậu chôn giấu ở vườn rau một người anh họ con chú con bác với anh. Người anh họ bị đi tù sáu tháng về tội nấu rượu lậu thật. Và anh Sạng uất ức bỏ đi. Riêng tôi, không hiểu tại sao ngay hồi đó tôi đă nhất định tin rằng anh oan. Một phần có lẽ v́ anh Sạng oan thật, một phần v́ anh là một trong những người ở làng mà tôi mến yêu trong suốt thời kỳ tuổi nhỏ. Giữa anh Sạng và tôi có nhiều kỷ niệm, bé mọn, nhưng ḷng tôi thay đổi nhiều mà những kỷ niệm ấy vẫn c̣n lại và vẫn thơm hương.

Anh Sạng có một thửa ruộng nhỏ ngoài cánh đồng gần nhà tôi. Buổi sớm nào tôi cũng ra đứng ở đầu ngơ và buổi sớm nào tôi cũng gặp anh Sạng ra đồng. Lần nào thấy tôi anh cũng đứng lại, trợn mắt, mắm môi, làm cho tôi vừa sợ hăi và thích thú. Anh bế bổng tôi lên trên cánh tay lực lưỡng, đoạn anh ghé sát vào tai tôi, hỏi nhỏ:

“Chú Thảo muốn ǵ?”

Lần nào anh cũng chỉ hỏi có vậy. Lần nào tôi cũng giơ tay chỉ lên cây bàng cổ thụ ở trước cửa nhà tôi. Thế là anh Sạng liền bỏ cày bỏ cuốc leo ngay lên cây. Từ những cành cao chót vót, anh hái những trái bàng chín vàng vất lung tung xuống đất cho tôi nhặt. Khi nào thấy hai túi áo tôi đă phồng lên, anh mới leo xuống, phùng má trợn mắt với tôi một hồi nữa rồi mới bỏ đi. Tôi lớn dần lên. Đến lúc đi học ở trường làng lại vẫn anh Sạng là người ở những ngày mưa gió cơng tôi đi trên con đường lầy đến tận cửa trường.

Tôi yêu anh Sạng. Gia đ́nh tôi quư anh, v́ tính anh hiền lành, v́ ḷng dạ anh ngay thẳng, hay nổi nóng, nhưng bản chất anh bao giờ cũng đôn hậu, cũng vui tươi.

Chuyện anh Sạng bỏ làng đi Nam kỳ, người làng người nước nói này nói nọ măi rồi cũng thôi. Như mọi câu chuyện xảy ra ở cuộc đời, những sự kiện sôi nổi nhất cũng lắng ch́m trong dĩ văng và cái thôn xóm bé nhỏ của tôi cũng biết lăng quên. Chuyện cũ nhoà dần, rồi chết hẳn. Duy có gia đ́nh anh, duy có tôi là vẫn không quên anh. Cứ mỗi mùa bàng chín, tôi ra đầu ngơ nh́n lên là h́nh ảnh anh lại hiện về qua một nhớ thương phảng phất dịu nhẹ. Bàng chín vàng trên kia nhưng không ai hái cho tôi nữa. Người mẹ già yếu thêm măi. Chị Sạng lúc nào cũng tư lường sầu muộn. Những đứa con anh đă biết nói biết đi.

Nhưng anh Sạng đi Nam kỳ th́ vẫn chẳng thấy về. Cũng chẳng có âm hao tin tức ǵ. Người đàn ông bỏ làng một buổi đi xa, con đê cao dẫn lối cho anh Sạng ngày nào, đến nay vẫn không hắt trả lại một bước chân, một tiếng nói, một âm hưởng, một chút ánh sáng dù rất mong manh của ngày hồi hương. Tôi thương vợ con anh Sạng, càng thấy cái đất Nam kỳ là mịt mùng xa xôi. Không biết anh Sạng c̣n sống hay đă chết? Một vài lần, chị Sạng khẩn khoản nhờ vả, tôi cũng viết mấy lá thư cho chị gửi vào Nam. Nhưng viết đấy cũng biết trước chẳng ăn thua ǵ. Phần v́ anh Sạng bặt vô âm tín đă lâu ngày. Phần v́ thư gửi đến những địa chỉ hết sức vu vơ. Thường là những vùng có đồn điền cao su. Dầu Tiếng, Trảng Bom, Ninh Hoà. Hỏi thăm phong thanh thấy nói anh Sạng ở đâu là chị Sạng lại nhờ tôi viết đến đấy. Cứ viết cứ gửi. Cứ bặt vô âm tín. Chị Sạng buồn phiền đau yếu luôn, càng biết đến những ngày cùng cực thiếu thốn trên mảnh vườn ruộng xơ xác. Về sau không biết ai đồn đến tai chị Sạng rằng anh Sạng ở trong Nam kỳ bây giờ giầu có lắm, rằng anh đă có nhà cửa đất cát, anh đă thôi làm ở đồn điền cao su về mua nhà mở tiệm ở Sài G̣n. Chị Sạng cũng giục giă tôi viết hộ chị những cánh thư gửi vào Nam. Thư tôi viết cho anh Sạng từ hồi đó đă nhiều mà vẫn không có một hồi âm nào gửi trả về xóm cũ.

Ngày tháng nghiêng đi. Như thế đă 18 năm.


Rồi người ta kư kết với nhau hiệp định Genève.

Cái thôn xóm bó nhỏ miền bể quê tôi náo động lên như một cuộc đổi đời. Đàn bà trẻ con già lăo từng đoàn kéo nhau lũ lượt xuống tàu. Vợ con anh Sạng cũng dời bỏ mảnh vườn cũ. Đất Nam kỳ xa xôi hăi hùng ngày nào bây giờ lại nằm trong nhỡn giới người đi như một viễn tượng tươi đẹp của miền Tự Do.

Chị Sạng cùng đi một chuyến tàu với tôi. Suốt mấy ngày lênh đênh trên mặt sóng, chị Sạng chỉ nói chuyện với tôi đến chồng. Xa cách 18 năm, tin tức bằn bặt, mà chị Sạng vẫn cứ tin rằng anh c̣n sống và trời đất tao loạn lại làm cho vợ chồng chị được gặp nhau. Tôi, tôi cũng muốn tin như thế, tin niềm tin của chị Sạng, tin tưởng hết ḷng. Kỷ niệm tuổi nhỏ trở về trong một ngày ly hương của tôi đă có cái bóng dáng của anh Sạng, những ngày mưa gió cũ cơng tôi đi trên con đường lầy. Tôi cũng mong được gặp lại anh.

Đặt chân lên đất nước miền Nam, mẹ con chị Sạng theo người làng lên định cư ở vùng Dốc Mơ, trên con đường Biên Hoà. Chị khẩn khoản dặn tôi ở Sài G̣n nếu có gặp anh Sạng th́ nhắn ngay cho anh biết mẹ con chị đă vào đây. Sự chung tuỷ của người đàn bà làm tôi cảm động. Tôi hứa với chị Sạng nếu anh c̣n sống, thế nào tôi cũng t́m bằng được anh.

Suốt hai tháng đầu tiên ở Sài G̣n, tôi để ư thăm ḍ tin tức của anh Sạng trong những buổi đi thăm thú đường đất, thuê mướn nhà cửa. T́nh cờ một hôm, tôi gặp anh Sạng ở Khánh Hội. Tôi nhận ra anh nhưng anh không nhận được tôi. Măi sau, lúc tôi đă nói trên tuổi nhà cửa anh mới chợt nhớ. Nhớ ra tôi rồi, anh mừng quưnh mời tôi về nhà.

Anh Sạng đă già đi nhiều. Tóc đă hoa râm. Những nếp nhăn in hằn lên những ngày mưa nắng. Vậy mà đi bên anh tôi bỗng có cảm tưởng như ḿnh bé nhỏ hẳn lại. Tôi sống một cảm giác thơ dại bỡ ngỡ như những tháng ngày hoa bướm đă về cũ, đă xa khuây, gặp anh đi qua ngơ ra đồng phùng má trợn mép làm bộ doạ nạt, một cảm giác vừa sợ hăi vừa thích thú lại nổi dậy trong tôi. Chỉ thiếu một con đường lầy và những trái bàng chín, nếu không, anh Sạng đă đưa hẳn tôi trở về trong tuổi thơ.

Tôi hỏi anh Sạng:

“Anh đi từ hồi ấy được bao lâu rồi nhỉ?”

Anh Sạng vẫn gọi tôi bằng chú:

“Chú tính 18 năm rồi c̣n ǵ? Dạo ấy chú c̣n bé tí. Giời mưa đi học c̣n phải cơng, chú bá lấy cổ tôi mỏi chết đi ấy”.

Hai chúng tôi cùng cười.

Đang đi tôi chợt nhớ đến mẹ con chị Sạng. Định báo tin cho anh biết, nghĩ thế nào tôi lại thôi. Để đến nhà anh sẽ báo sau. Tôi muốn dành cho anh một sự bất ngờ vui thú. Tôi tin rằng nếu biết vợ con anh đă vào đây anh Sạng sẽ sung sướng lắm.

Đến một căn nhà lá bé nhỏ, xiêu vẹo cuối một ngơ hẻm, anh Sạng đứng lại.

“Nhà tôi đây chú ạ!”

Tôi nh́n căn nhà tồi tàn, thật thà hỏi anh:

“Sao người ta đồn anh giàu có lắm cơ mà?”

Anh Sạng nói, giọng buồn rầu:

“Ấy v́ thế mà tôi cũng chẳng muốn tin tức ǵ về làng về nước cả. Đă lang bạt đến nơi đất khách quê người mà cứ lận đận măi. Tôi cũng chẳng muốn cho làng xóm láng giềng họ biết làm ǵ. Chỉ thêm chê cười chú ạ!”

Anh đẩy cánh cửa gỗ mời tôi vào. Định nói cho anh biết tin tức vợ con anh tôi lại thôi ngay. Vừa có một người đàn bà đi ra tay dắt mấy đứa trẻ con. Thấy tôi nh́n trừng trừng có vẻ lạ lùng, anh Sạng vậy nói:

“Nhà tôi đấy chú ạ!”

Người đàn bà cúi đầu chào tôi. Chị nói tiếng miền Nam. Mấy đứa trẻ nhỏ vây chung quanh gối người mẹ, nh́n tôi chăm chú.

Anh Sạng bảo vợ:

“Chú Thảo đấy!”

Người đàn bà mỉm cười bế con lại gần. Chị hỏi thăm tôi chuyện ngoài Bắc. Chị bảo tôi rằng anh Sạng có nói chuyện đến tôi, đến gia đ́nh tôi cho chị nghe luôn. Chị mong một ngày nào yên b́nh, đường đất đi lại dễ dàng, mẹ con chị sẽ được anh Sạng cho ra chơi thăm ngoài quê chồng. Tôi trả lời nhát gừng. Tôi không có cảm t́nh với người đàn bà này. Nh́n chị, tôi nghĩ đến một người đàn bà khác, người vợ cả miền Bắc, vừa vượt bể đi hàng ngh́n cây số vào đây, với niềm tin tưởng cuối cùng gửi gấm tất cả vào một ngày lại gặp người cũ. Nhưng mà cuộc đời có đi theo cái hướng đi của niềm tin tưởng kia không? Anh Sạng đă lấy vợ khác rồi. Anh đă có những đứa con khác, xây dựng một cuộc đời khác. 18 năm hiện lên trong trong qua một ấn tượng cách biệt thăm thẳm. Tôi nghĩ đến khoảng thời gian không cùng ấy với sự đổi thay rộng lớn của cuộc đời và của con người. Tôi nghĩ đến những tầng lớp của biến chuyển tàn nhẫn, đảo lộn ghê gớm, đến cái độ tan biến hoàn toàn những dấu vết đường lối cũ. Thời gian ở đây cũng đang làm loăng nhạt những tâm hồn chung thuỷ nhất, những kỷ niệm đằm thắm nhất và những liên lạc sâu nặng nhất. Vậy mà chị Sạng đă đợi chờ mười tám năm. H́nh ảnh người đàn bà bồng con đợi chồng về trong không gian bát ngát và trong thời gian không màu, dưới mưa nắng gió băo, mùa qua mùa, trở lại về bằng những bóng h́nh tối xám trong tôi. 18 năm. Người đàn ông bỏ làng ra đi, khi ném cả đời ḿnh vào cuộc phiêu lưu chắc đă có thừa ư định đoạn tuyệt với đoạn đời cũ, những người thân yêu cũ. Tôi không muốn tin. Nhưng lại bắt buộc phải tin.

Tôi nh́n anh Sạng. Anh bế đứa trẻ nhỏ nhất vào trong ḷng. Người đàn bà đến ngồi bên anh. Tôi quay mặt trước cảnh tượng âu yếm. Tôi đứng dậy.

“Ngồi chơi đă chú Thảo”. Anh Sạng bảo tôi.

“Thôi để lần khác”.

“Vậy hôm nào chú ở chơi lâu nhé! Các con chào chú Thảo đi”.

Người đàn bà đẩy tay những đứa trẻ. Chúng chào tôi ngượng ngập. Anh Sạng đứng dậy bảo vợ:

“Ḿnh ở nhà, tôi đưa chú Thảo ra đầu phố”.

Từ nhà anh Sạng đi trở ra, ngơ hẹp chói nắng không có một bóng cây. Tôi nhớ đến cái bóng mát dầy đặc của một cây bàng cổ thụ ở đầu ngơ quê tôi. Tôi muốn đưa anh Sạng trở về cùng tôi dưới gốc bàng này, trong dĩ văng. Tôi nghĩ nhiều đến cái gia đ́nh của anh. Đến chị Sạng, đến sự đợi chờ của chị suốt bấy lâu, đến những cánh thư của chị gửi đi lác đác suốt một đoạn đời dài thẳm, sự trông mong khắc khoải không tính đếm đến tháng ngày. Tôi nghĩ đến lúc tàu ghé bến Sài G̣n, đôi mắt chị tha thiết, khẩn khoản nhờ tôi t́m bằng được anh Sạng cho chị. Tôi đă t́m được rồi, chị Sạng ạ! Nhưng anh Sạng có c̣n là người của chị nữa không?

Hai chúng tôi im lặng bước đi.

Tôi nói bất th́nh ĺnh:

“Anh Sạng này!”

“Chú Thảo bảo ǵ?”

“Chị ấy và các cháu đă vào đây rồi đấy”.

“Ai?” Anh Sạng hỏi sửng sốt.

“Chị ấy với các cháu. Cùng đi một chuyến tàu với tôi. Bây giờ hiện ở trên Dốc Mơ. Chị Sạng có nhờ tôi nếu có gặp anh th́ nói cho anh biết để anh tới đón về”.

Một lát ngẫm nghĩ. Anh Sạng nh́n tôi:

“Sao bây giờ chú mới nói cho tôi biết”.

Tôi không trả lời anh. Anh cũng đă biết tại sao tôi đă im lặng, tại sao bây giờ tôi mới nói với anh. Người đàn bà miền Nam với những đứa trẻ nhỏ tôi vừa gặp đă là cái nguyên nhân làm cho tôi trở nên ngại ngùng. Báo tin cho anh Sạng về sự mới tới của mẹ con chị Sạng, tôi chỉ giữ trọn vẹn một lời đă hứa. Thế thôi. Tôi không dám tin tưởng ǵ. Mà lại chỉ dám tin tưởng ở điều này là thời gian và sự xa cách vẫn làm cho những hướng đời gần gụi nhất cũng lăng quên nhau và kỷ niệm chỉ là một h́nh ảnh trừu tượng, những sự kiện đă chết, không có được lấy một tác động bé nhỏ. Tôi không giận anh Sạng nếu thực ra anh đă lăng quên. Tôi biết anh đang buồn phiền nhiều. Đem ḷng ḿnh hôm nay để giải quyết một sự trạng trái ngược của hiện tại, anh Sạng chỉ c̣n cách đi ngược lại 18 năm cũ, thăm ḍ lại ḷng anh th́ anh mới t́m được giải pháp thích đáng. Lại cũng chỉ có ḿnh anh giải quyết được thôi. Tôi đoán anh cũng đang làm thế.

“Tôi thật không ngờ, chú Thảo ạ! Chú có nói tôi mới nhớ v́ quả thật tôi đă quên từ rất lâu. Như tôi đă muốn quên tất cả. Cả làng ngờ oan cho tôi, đến mẹ tôi, đến vợ tôi cũng ngờ vực theo nữa. Mấy năm sau có người vào trong này nói đến tai tôi là vợ tôi đă đi lấy chồng. Sau đó tôi gặp cái Năm ở Dầu Tiếng. Đang buồn bực tôi lấy nó làm vợ. Bây giờ thấm thoát đă ăn ở với nhau được mười hai năm rồi. Có con cái với nhau nữa. Tôi cũng lại bảo cái Năm là tôi đă mất vợ trước, nó mới bằng ḷng lấy tôi. Nó biết sự thể thế này, nó sẽ buồn lắm. Mà tôi bỏ cái Cả ở trên Dốc Mơ th́ cũng không đành. Chú bảo tôi xử trí thế nào bây giờ?”

Trước hết tôi thấy cần phải đính chính giùm cho chị Sạng một điều: không bao giờ có chuyện chị đi lấy chồng. Mười tám năm trời chị nuôi con trong khổ cực và sống trong sự chờ mong tin tức anh. Anh Sạng có thể tin rằng, trước sau ở người vợ miền Bắc đáng thương kia không hề có một dấu vết đổi thay bé nhỏ nào, mà chỉ là những sắc màu bền vững nhất của chung thuỷ. Ngoài ra đó là chuyện riêng của anh. Anh phải xử trí lấy. Nghe rơ những tiếng ḷng anh, th́ rồi anh sẽ giải quyết được êm đẹp ổn thoả.

Cuối cùng, tôi cho anh biết địa chỉ của mẹ con chị Sạng, rồi tôi từ giă anh.

Thời gian nghiêng đi. Từ ngày gặp anh Sạng, đến nay đă được sáu tháng. Trong thành phố rộng lớn, cuộc sống tiến tới là sự kết thành của những lớp đổi thay mănh liệt. Mỗi ngày một h́nh thức mới. Mỗi ngày một màu sắc mới, một tâm t́nh mới. Đôi khi, giữa hai trang nhật báo, đọc những tin tức của thất lạc, của thăm hỏi, và qua h́nh ảnh của những người mẹ t́m con, những đứa con thơ dại đi t́m những người chị khuất vắng dài hạn, những người vợ yếu đuối đi ḍ thăm một dấu vết nhoà nhạt của chồng con giữa những ngă ba, những đám đông, tôi lại chợt nhớ đến chị Sạng, đến đôi mắt chị Sạng, chị có c̣n được ai dành cho một chỗ đứng bé nhỏ dưới một mái nhà nào không? Sự cô độc đơn lẻ ở người đàn bà đáng thương kia có là một trạng thái vĩnh viễn kéo dài như một vệt bóng tối cho đến trọn đời?

Tôi c̣n giữ được niềm tin của tôi ở rất nhiều điều. Nhưng tôi không dám tin tưởng ở sự bền chặt của ḷng người. Nhất là ở ḷng người đă bỏ đi như anh Sạng.

Vậy mà mùa xuân đă về rồi. Mùa xuân của những ngả đường cỏ non, của những ngày khởi đầu nhung lụa, của những đợt khói hương thơm ngát trong đêm Giao thừa, của buổi gặp lại, của ngày trở về. Mùa xuân tự do thứ nhất ở đây vẫn chứa đựng cái h́nh ảnh muôn đời đôn hậu của đoàn viên. Cuộc sống như h́nh ảnh của một ngả đường đến h́nh ảnh một trạm hẹn. Con người từ h́nh ảnh một chuyến đi đến h́nh ảnh một ngày dừng chân. Đến sự hoà hợp của những phương hướng cách biệt. Nhưng c̣n điều này: mùa xuân có đến với tất cả mọi người? Đến với tôi, đến với chúng ta, nhưng có đến với mẹ con chị Sạng? Tôi không biết nữa.

Rồi câu chuyện của anh Sạng, nỗi bận tâm của tôi trong suốt một thời gian, chính tôi cũng lăng quên đi.

Cho măi đến tuần lễ trước. Một buổi sáng tháng Chạp. Thành phố tấp nập không khí buôn bán cuối năm. Tôi đang đi bộ ngắm những dăy hàng đến dịp này th́ lại xuất hiện và lại chiếm hết chỗ của những hè đường vây chung quanh chợ Bến Thành th́ tôi gặp anh Sạng.

Trông thấy tôi, anh đứng sững lại mừng rỡ:

“Ô ḱa chú Thảo! Lâu lắm mới lại gặp chú. Về nhà chơi cái đă”.

Không kịp để tôi trả lời, anh kéo bừa tôi đi. Giữa phố phường đông đảo, một anh Sạng đă già yếu nắm tay tôi kéo thẳng một mạch về nhà, và tôi ngoan ngoăn đi theo anh như anh đă dắt tôi những ngày thơ ấu cũ. Anh Sạng nói chuyện suốt dọc đường đến cái Tết năm nay. Đến công việc của anh dạo này xem chừng đă thấy khấm khá hơn. Đến sự may mặc cho những đứa trẻ. Như thế cho đến nhà.

Như lần trước căn nhà bé nhỏ của anh hiện ra cuối đáy ngơ hẻm.

Như lần trước anh gơ cửa. Như lần trước cửa mở, rồi người đàn bà miền Nam hiện ra. Đằng sau chị, mấy đứa trẻ nhỏ.

Nhưng lần này tôi đă nh́n thấy thêm một cái ǵ, một cái ǵ mà tôi đang mong đợi hết ḷng suốt mười tám năm. Tôi đứng ngây người: ở một góc nhà, dưới một vùng ánh sáng của lửa bếp, chị Sạng, người vợ cả miền Bắc, đang ngồi thổi cơm. Bên gối chị, hai đứa trẻ miền Nam tựa vào ḷng chị nh́n lửa cháy. Nghe tiếng động, chị Sạng bỏ củi lửa nh́n lên. Chị mỉm cười với tôi. Tôi nh́n anh Sạng. Tôi nh́n cả nhà. Sau cùng cái nh́n của tôi gửi đến người đàn bà miền Nam vẫn đứng sau tôi. “Cái Năm Sà-gọng” của anh Sạng, người đàn bà thứ hai đă đến đời anh, yên lặng ngó tôi không nói ǵ. Nhưng tôi đă hiểu chị, qua một thoáng lửa lấp lánh nghịch ngợm mà tôi vừa bắt gặp ở trong mắt chị, nó nói nhiều cho cái tâm t́nh dễ dàng cởi mở, dễ dàng đón nhận, mà tôi thường thấy ở người đàn bà miền Nam. Tôi nh́n chị Sạng Hai. Tôi nh́n anh Sạng. Vui mừng và cảm động.

Tôi biết anh đă giải quyết ổn thoả êm đẹp cái chuyện riêng của anh rồi. Tôi c̣n biết rằng một phần lớn chính c̣n ở chị Năm nữa. Trước sự phân vân lưỡng lự, trước hoàn cảnh éo le của chồng, người đàn bà miền Nam đă hành động cao đẹp bằng cách đón nhận về chung một mái nhà, người đàn bà miền Bắc xa lạ, chia sẻ t́nh vợ chồng để có thêm t́nh chị em. Hành động này tôi thấy như một bông hoa vừa nở lên giữa thiên nhiên, trong cuộc đời, thành mùa xuân thứ nhất sau 18 năm không có mùa xuân. Tôi nh́n chị Năm, kính phục, quư mến. Chị Năm đă lấy được trọn vẹn cảm t́nh của tôi.

Buổi trưa cuối năm hôm đó tôi đă ở lại ăn một bữa cơm thường với gia đ́nh anh Sạng.

Chúng tôi nói chuyện ngày xưa. Kỷ niệm tuổi thơ được nhắc nhở lại, vừa cảm động, vừa buồn cười. Tôi thấy tôi bé nhỏ hẳn lại.

Vợ chồng con cái anh Sạng đưa tiễn tôi ra tận đầu ngơ. Ngày ngả về chiều. Nắng vàng lụa. Xa xa từ những trung tâm thành phố, những tiếng ồn ào của một phiên chợ Tết vừa dâng lên. Tôi đi ra khỏi ngơ. Tôi cất tiếng hát nhỏ. Tôi nhớ đến tuổi thơ của tôi. Tôi đang đi trên đường tuổi thơ. H́nh ảnh đoàn viên của gia đ́nh anh Sạng, chiều nay đă gây cho tôi cái cảm giác ấm áp của đêm Giao thừa, của ngày mùng Một. Người ta đang t́m về nhau. Đông lắm. Người ta đang gặp lại nhau. Con người, dân tộc đang hồi xuân.

Tôi nghĩ đến những con mắt, những nắm tay, những bếp lửa, những mái nhà. Từ một chấm dứt của mưa phùn tháng Chạp đến một khởi đầu của cỏ non tháng Giêng, mùa xuân dâng lên trong tôi, trong những h́nh ảnh tươi đẹp nhất của Đoàn Viên.

 

Hết