Những
V́ Sao Thứ Nhất
|
- Mai Thảo
|
|
|
Năm mười bảy tuổi, tôi đă sống rất nhiều với những v́ sao.
Tôi đă gọi chúng là những v́ sao của Diệu. Tại sao và tại
sao bây giờ tôi nhắc lại những v́ sao cũ, tôi sẽ nói ở dưới.
Dạo ấy, chúng tôi ở phố Hiến. Căn nhà lá của cụ lư Bằn –
người chủ trọ – khoảng vườn nhỏ cạnh bờ ao biến thành một
đài thiên văn nhỏ, đêm nào chúng tôi cũng ra ngồi ở đó, tâm
hồn thơ dại mở những lối đi lên những đỉnh trời. Tập thơ đầu
tiên của tôi với bài đề tựa của Diệu – không bao giờ được in
ra – lấy tên là Phương Sao. |
|
|
Những vần thơ thứ nhất viết vào những giờ phút thao thức dưới ngọn
đèn nhỏ, trong đêm tỉnh lẻ không cùng, trang giấy trắng muốt là một
khoảng không gian rộng bằng thế giới của những v́ sao. Thường thường
tận khuya chúng tôi mới từ ngoài vườn trở vào nhà. Đêm lạnh buốt.
Liếp mỏng. Hoa lá ngoài vườn thơm một hương thơm quái đản. Những
ngọn cỏ tối chân bờ ao thân mật gần gũi như những linh hồn người.
Không khí liêu trai xuất ra từ những gốc rêu đất ẩm lạnh. Những v́
sao tưởng như c̣n đi xuống nói chuyện vũ trụ và đời hành tinh lạnh
lùng với những khoảng tuyết băng ngời ngời trên cao.
Tuổi mê sao, coi trăng là bạn và đường đi là con sông Ngân Hà lấp
lánh, ánh sáng mơ màng choán ngập tâm tưởng tôi, trên những trang
sách tôi, vào tận giấc ngủ. Trường chúng tôi ở Hà Nội dọn về sau mấy
trận oanh tạc kho đạn Nhật Bản ở Gia Lâm, bấy giờ là vào khoảng cuối
năm 1944. Nên trời đă thẫm màu của một thời chiến đă bén lửa có bóng
những chiếc pháo đài bay hai thân từ duyên hải tiến vào không phận
thành phố pḥng thủ. Trái bom dữ dội làm phát hỏa cả một góc cổng
thành Cửa Bắc. Hai hôm sau chúng tôi đóng cửa trường ra bến Phà Đen.
Tôi gặp Diệu lần đầu tiên trên chuyến tàu đêm dời Hà Nội lúc hai giờ
sáng. Nếu Diệu c̣n sống, tôi cũng vẫn nhớ được trọn đời chuyến tàu
đêm ấy. Nước chảy bồng bềnh. Bóng tối dăng dăng. Tiếng c̣i dời bến
nức nở. Diệu chết, chuyến tàu, tiếng c̣i, bóng tối sống lại trong
tôi thành những h́nh ảnh vĩnh cửu của tuổi mười bảy. Đêm nay tưởng
nhớ lại những v́ sao cũ tôi đi lại trong tưởng tượng một chuyến tàu
trong đêm Hồng Hà. Tôi đă mất Diệu, xa Hồng Hà và những v́ sao cũ.
Vậy là buổi chiều ấy, một chuyến tàu đă dời Hà Nội. C̣i hú dài đập
vào những băi vắng không nh́n thấy. Tiếng nức nở là những âm thanh
vĩnh biệt. Nhịp đẩy đưa bồng bềnh của nước chảy dưới gầm cầu. Nước
chảy xuôi, bánh lái chân vịt quay trở lại. Tôi đón nhận ấn tượng thứ
nhất về thời gian trong chuyến đi lần đầu. Tôi nhớ lại từng chi
tiết. Tàu đi đă lâu. Những ánh nến được đồng loạt đốt lên. Chúng tôi
là bốn trăm người không ngủ. Tiếng nói chuyện th́ thầm từ đầu đến
cuối mũi tàu. Đêm mùa đông vải bạt phủ kín tứ phía. Từ buồng máy hơi
than lửa bốc lên ngột ngạt. Tôi không ngủ được cũng không xem được
cuốn tiểu thuyết mang theo và cũng không góp chuyện được với lũ bạn
hữu. Sau cùng tôi đứng dậy lách khỏi đám thân thể nằm ngổn ngang vén
bạt đi ra, lần về phía mũi tàu.
Tôi trông thấy Diệu lần thứ nhất. Anh ngồi quay lưng lại trên đống
dây sắt. Lúc đó tôi chưa biết Diệu là ai nhưng một cảm giác thân
thuộc đă vụt đến. Sự gần gũi của hai người cùng có một cái ǵ giống
nhau trong một giờ phút đặc biệt v́ nếu không có Diệu ngồi đó tôi
cũng sẽ đến ngồi trên đống dây xích sắt và cũng quay lưng trở lại.
Tôi đứng lại, không động, tay vịn vào thành sắt vây quanh đai tàu.
Về sau, có một lần tôi cũng trông thấy một người ngồi như thế, trong
một sân ga nhỏ đêm mưa phùn, chờ một chuyến tàu chưa đến, như một
cái bóng một pho tượng đắm ch́m trong im lặng. Tôi yêu những con
người với những bóng h́nh thành tượng như vậy. Sự suy nghĩ triền
miền lúc đó như đẩy ra khỏi hiện tại có giới hạn đến một thế giới
nào chỉ có ḿnh với ḿnh không một liên lạc một vướng bận với chung
quanh. Rodin lúc nặn tượng người suy tưởng chắc cũng có những phút
tách rời như thế để sáng tạo trong những h́nh nét điêu khắc thần kỳ
một con người đối diện với thế giới nội tâm của ḿnh. Phút ấy tôi
chắc Diệu cũng chưa lắng được hẳn vào suy tưởng. Bờ vai bờ lưng kia
c̣n như bị đè nặng dưới một tâm sự: Hà Nội. Tôi cứ đứng yên lặng mà
nh́n Diệu, thấy rằng một tiếng động nhỏ lúc đó cũng không thể tha
thứ. Bóng Diệu in lên mặt sông đêm khuya thoáng gợn những bọt nước
trắng như những sợi chỉ đứt. Tôi nghĩ đến một cái ǵ tương phản. Bên
trong, bốn trăm gă học tṛ tản cư chụm đầu trên những trang tiểu
thuyết, th́ thầm nói chuyện hoặc đă ngủ say sưa mê mệt. Và bên
ngoài, một người ngồi nh́n đêm, nh́n thời gian, ngồi trong một thế
giới. Tôi thấy Diệu lạ lắm. Lúc đó tôi không c̣n nghĩ Diệu là một gă
học tṛ nữa. Tôi vừa ngạc nhiên vừa kính trọng. Sau cùng, tôi tiến
lại gần. Bước chân tôi vướng vào một cái ǵ, làm thành tiếng động và
Diệu quay lại. Anh nh́n tôi thản nhiên, nhưng hai con mắt sáng lên
như hai v́ sao nhỏ. Tôi lặng lẽ ngồi xuống bên cạnh, trên đống dây
xích sắt đă lạnh buốt. C̣n tàu vẫn chuyển đi. Một lát sau tôi đoán
vào lúc tàu về qua vùng Bát Tràng, Gốm ǵ đó th́ tôi đă được biết ít
nhiều về Diệu. Tên anh, quê ở Sơn Tây và mới xin nhập học được nửa
tháng th́ trường phải thuyên chuyển. Thảo nào cùng trường mà chúng
tôi chưa quen nhau. Tôi hỏi Diệu:
“Ngồi ngoài này lạnh lắm. Anh không buồn ngủ sao”.
“Không, Diệu cười. Ngày nhỏ đi thuyền trên sông Đáy tôi vẫn thức
suốt đêm cho đến lúc ghé bến. Tôi thích nh́n sao”.
Yên lặng một lúc, Diệu nói tiếp:
“Không ǵ đẹp bằng những v́ sao”.
Câu chuyện giữa chúng tôi thỉnh thoảng lại bị cắt đứt bằng những im
lặng dài. Chúng tôi cùng nh́n xuống khoảng tối của sông dưới mũi
tàu. Một lát, nh́n lên, tôi bắt đầu thấy những v́ sao là đẹp. Nh́n
sang Diệu, tinh tú đựng trong mắt anh và tôi không biết anh đang
nghĩ đến điều ǵ. Người anh gầy, nhỏ. Anh mặc một chiếc áo dài đen
rộng lùng thùng. Thôi nh́n sao, Diệu lại kể chuyện Sơn Tây cho tôi
nghe. Thành đá cổ cũ hoang vắng, hào sâu cỏ lấp kín, buổi trưa tỉnh
lẻ nắng mệt mỏi ngủ giữa những bóng bàng cao vút, tiếng bánh xe ngựa
lăn ṿng quanh cửa Tiền cửa Hậu và buổi chiều gió sông Hồng thổi vào
thành phố với những chuyến xe hàng nặng nề từ mạn Trung Hà vào đỗ
trong bến. Tôi hơi buồn cười về lối thuật chuyện của Diệu lúc đó.
Sau này tôi mới khám phá thấy những tiếng xe cửa Tiền cửa Hậu ấy,
những rănh hào cỏ hoang ấy là những trang tiểu thuyết đẹp nhất tôi
đă đọc được ở Diệu.
Đêm theo trường về phố Hiến sao cũng sáng và cũng nhiều lạ lùng.
Sông Ngân Hà vắt qua chạm vào ḷng sông cắt thành một ngă tư hào
quang. Con tàu đi lâu vẫn không hết ngă tư ánh sáng. Một lúc nào đó
Diệu chỉ tay bảo tôi:
“Chỗ kia sao xúm xít dễ đến hàng triệu”.
Quả thật chưa bao giờ tôi lại có cảm tưởng sao nhiều đến như thế. Về
sau, đêm nào tôi cũng gặp những v́ sao nhưng tôi chỉ gần chúng nhất,
thấy chúng đẹp nhất riêng trong đêm đi tàu và gặp Diệu. Nền trời đen
thẫm ở trên, con sông ở dưới sâu hút, tàu chuyển ḿnh giữa hai màn
sao, một của trời và một của nước. Chúng tôi ngồi ở giữa. Sương
xuống càng nhiều, đêm càng lạnh, sao càng sáng rực rỡ. Vẻ đẹp của
tinh tú đêm ấy nằm trong tâm tưởng người. Nh́n lên, vẽ những con
đường tưởng tượng đến một hành tinh xa lạ hoặc là dạo những bước
chân tưởng tượng giữa hai bờ sông Ngân, cảm xúc tôi đêm đó không
phải thuộc về một ư niệm khoa học. Vũ trụ chỉ là một cảnh tượng đẹp
lăng mạn, tôi không phân tích nổi với những v́ sao bí mật quyến rũ.
Con tàu vẫn đi. Tôi đă thức với Diệu như thế, nói chuyện th́ ít ngắm
sao th́ nhiều, cho đến khi tầu cập bến Hưng Yên. Ánh sáng của lửa
bến khác hẳn, đục, buồn và tầm thường. Rồi con đường lên thành phố
hiện ra tăm tối qua những băi ngô. Đất bồi ven sông rộng mênh mông.
Đoàn học tṛ kéo dài. Diệu lùi xuống cuối đoàn đi bên cạnh tôi và
câu chuyện về những v́ sao vẫn chưa dứt. Tôi gợi chuyện. Diệu lại kể
cho tôi nghe những đêm ở Sơn Tây, anh đứng ngắm sao hiện lên trên
cổng thành. Anh nhớ có một v́ sao lớn đêm nào cũng mọc rất muộn ở
góc thành cửa Hậu, anh đă chờ đón như chờ một người bạn, ở một chỗ
nhất định. Mấy năm sau anh không nh́n thấy v́ sao ở chỗ cũ và khoảng
trời thiếu vắng một điểm sáng như một sự thương nhớ đen. Tôi nghe
chuyện càng thấy Diệu kỳ lạ.
Trời sáng mờ mờ khi chúng tôi đặt chân vào phố Hiến. Nền trời hồng
hồng không c̣n một v́ sao nhưng mà những v́ sao đêm qua đă làm chúng
tôi thân nhau. T́nh bằng hữu giữa tôi và Diệu sau này vẫn có cái ánh
sáng lạnh và h́nh ảnh thương nhớ của những v́ sao đêm thứ nhất.
Nỗi buồn của Diệu thường trực. Trong suốt mười bốn tháng – thời gian
lưu trú ở phố Hiến – không bao giờ tôi thấy Diệu vui. Trường học mới
rất thích hợp với Diệu. Đó là một tu viện ba tầng màu xám đứng sừng
sững giữa một băi cỏ rộng sau chợ cách xa thị xă bằng một con đường
đất đỏ lúc nào cũng lầy lội. Phía sau trường, thật xa, một con đê
chạy dài, bóng những cây nhăn cao đều nhau kéo đi với những khoảng
cách đều đặn. Tôi không quên được những đêm sao ở phố Hiến, cũng
không quên được những bờ đê phố Hiến. Cỏ xanh mướt, lúc nào cũng
tươi nơn, từ mặt đê thoai thoải đổ xuống chân đê, chỗ nằm lư tưởng
cho chúng tôi những buổi trưa đến đó chia nhau mỗi người một gốc
nhăn, nằm nh́n bầu trời biếc giữa những khoảng lá trống động nắng.
Thật là những cánh lá thon ḿnh thuyền của Huy Cận. Chúng đi vào tâm
hồn Diệu u ẩn hoang vu mà tôi đă muốn so sánh với một tháp Chàm của
Chế Lan Viên khi tâm hồn tôi mới chỉ có được cái thơ dại bỡ ngỡ của
một vần thơ Nguyễn Nhược Pháp. Trong lăng mạn của tuổi thơ đă có
tượng trưng của hồn. Tác dụng từ con người từ nếp sống của Diệu gửi
tới chúng tôi, sắc thái sâu đậm nhất là bao giờ ở Diệu cũng như mở
ra một cửa ngơ của suy tưởng chúng tôi theo đó đi vào những thế giới
ảo tưởng vừa đẹp và vừa buồn. Đẹp v́ nhiều ánh sáng. Buồn v́ ít
tiếng động. Ánh sáng của những v́ sao, trong sự im lặng của đêm của
vũ trụ. Nhiều khi nằm ở chân đê – chọn những góc khuất vắng, tôi đă
mất hẳn ư niệm về thời gian, đến lúc rũ áo ngồi đây, buổi chiều đă
xuống từ bao giờ mà không hay biết. Nắng xế thoi thóp trên mái tu
viện. Những bờ ruộng kéo dài và trời sâu hơn. Một buổi chiều, Diệu
đă chỉ cho tôi một dải nắng sắp tàn trên mặt cỏ. Và nói:
“Một đời được nh́n nắng đẹp vài lần thế này cũng đủ”.
Tôi không hiểu chữ “cũng đủ” của Diệu. Có lẽ bởi một linh tính nào
đă báo trước cho Diệu, anh nằm xuống sớm, để những dải nắng chiều
trở nên quư báu v́ vĩnh viễn con người anh không nh́n thấy nữa,
không lâu ǵ. Bấy giờ tôi mới thấy Diệu có lư và hiểu thấu đáo ư
nghĩa hai chữ cũng đủ của anh. Hàng ngh́n hàng vạn con người sống
lâu gấp ba bốn lần cuộc đời ngắn ngủi của Diệu, chưa từng bao giờ ư
thức và xúc cảm được về cái đẹp của một dải nắng, một v́ sao. Họ chỉ
biết là có nắng đấy có sao đấy, nhưng không biết thế nào là đẹp, và
bởi vậy trời đất thiên nhiên chỉ là những đối tượng thờ ơ của một
cái nh́n khách quan, vô nghĩa và ở ngoài. Điều càng làm cho tôi quư
mến Diệu lúc sống, và sau cái chết của Diệu, thương xót anh măi măi,
là bản chất buồn, nhưng sức sống của Diệu thật mănh liệt. Chỉ như
một cái bóng đi vào và ra khỏi rất thoáng rất mau giữa cuộc đời như
là một cái bóng đựng một lượng sống chan ḥa phát triển. Ở chỗ: Diệu
chẳng những đă thao thức t́m kiếm một lối đi vào sâu trong sự vật,
anh c̣n gửi cho sự vật ḷng yêu mến chân thành. Thái độ này gắn Diệu
vào với sự vật làm một. Những v́ sao với anh là một. Dải nắng chiều
bờ cỏ xanh với anh là một. Lúc anh là một thân cây. Lúc anh là một
v́ sao.
Sống với Diệu một thời gian, tôi đă viết những vần thơ thứ nhất. Tự
nhiên, dễ dàng như gă học tṛ làm bài giữa trời đất. Cái ǵ thúc đẩy
tôi? Có phải là trong lớp học thiên nhiên tôi ngồi chung ghế với
Diệu? Tập thơ Phương Sao không bao giờ được in ra – tôi coi như là
một phúng viếng gửi cho người bạn đă khuất – tôi đă đánh rơi xuống
ḍng sông Mă trước bến đ̣ Lèn một buổi chiều có phi cơ oanh tạc vụt
đến. Những ḍng thơ mơ hồ không nhớ được nữa, nhưng mà những xúc cảm
ghi nhận trong đó tôi nhớ chính là sự tiếp xúc đầu tiên của tôi với
giấy mực với thiên nhiên qua con người Diệu. Ví như những âm thanh
tôi nghe được qua hồn Diệu là tiếng vang núi. Bây giờ th́ những xúc
cảm tôi đă có thể tiếp nhận thẳng ở sự vật nhưng Diệu vẫn cứ c̣n
nguyên vẹn là một sự thiếu vắng những lúc tôi chợt đứng sững một
ḿnh giữa một cảnh tượng đẹp làm ḿnh ngây ngất. Diệu mang h́nh ảnh
một ư niệm tổng hợp. Nếu mà người đàn bà thứ nhất vẫn gửi lại cảm
xúc qua những người đàn bà khác tôi gặp nhiều về sau, th́ Diệu cũng
là cái đẹp đầu tiên ấn tượng tôi vẫn luôn luôn gặp lại trong những
cái đẹp tôi đón nhận được bây giờ và mai sau. Trên nền trời của
riêng tôi, những v́ sao vẫn thay phiên nhau mọc lên trong ánh sáng
tinh tú muôn vạn. Nhưng Diệu th́ vẫn là v́ sao thứ nhất.
Diệu chết năm 19 tuổi. Không phải ở Sơn Tây, cũng không phải ở phố
Hiến mà trong cái ngơ hẻm số 5 cuối đường Khâm Thiên ngoài Hà Nội.
Cách mạng tháng Tám bùng nổ. Chúng tôi bỏ trường, người về Hà Nội
người về quê. Bẵng đi khá lâu tôi không gặp Diệu. Đến lúc lên Hà Nội
mới biết tin Diệu đă mất. Tôi hỏi thăm và t́m đến chỗ Diệu ở. Lúc
bây giờ vào buổi trưa. Qua một phố lớn, ngơ hẹp mất hút giữa hai bờ
tường xám. Tôi đă đứng lại rất lâu giữa ḷng ngơ, nh́n lên khoảng
trời cao. Một khoảng trời thành phố bé nhỏ lạ lùng. Tôi nghĩ đến
những ngày cuối cùng của Diệu, ở ngơ hẻm, với một vài v́ sao hiếm
hoi họa hoằn mới hiện ra giữa hai chiều tường. Tôi gơ vào một tấm
cửa đóng kín. Một bà cụ già ra mở cửa. Bà ngó tôi chăm chú. Sau khi
tôi tự giới thiệu, bà gật đầu nói:
“Phải, cháu nó mất đă hai tháng. Bị bệnh đau phổi đấy ông ạ! Theo
lời cháu dặn tôi chôn cất cháu ở một nghĩa địa ngoại ô. Cháu có gửi
tôi một lá thư dặn giao lại cho ông”.
Tôi nghĩ thầm: Một v́ sao đă tắt ở đây. Tôi theo bà cụ vào nhà. Căn
buồng tối mờ mờ. Tường mái long lở cũ kỹ. Mấy chiếc bàn ghế đứng im
lặng trên nền đất tối và lạnh. Tôi đứng rất lâu, cả người tê đi
trong sự đợi chờ tiếp nhận lại một cái ǵ. Một cái ǵ của Diệu, một
h́nh ảnh, một màu sắc quen thuộc. Cảm giác đau đớn rức buốt nổi lên
trong tôi. Căn pḥng không để lại một dấu tích nhỏ bé nào có thể
chứng minh với tôi Diệu đă về sống và đă chết ở đây. Có thể nào được
không? Nếu để t́m đến cái chết Diệu có thể về đây để chết, nhưng chỗ
này anh không thể sống được, ở đây chẳng khác ǵ một tu viện bưng
bít như một hầm kín. Căn nhà lạnh thiếu ánh sáng, bóng tối đọng lại
trong mắt. Tôi nhớ cùng một lúc đến những đêm sao lấp lánh muôn
triệu những bờ đê cỏ mướt những phiến da trời xanh trên đỉnh cây cái
thế giới tâm hồn của Diệu ở ngoài kia, bên ngoài thành phố bên ngoài
ngoại ô, bên trên mặt đường bên trên mái nhà, chỗ những khoảng rộng
mà tầm mắt không bị thu hút, cái nh́n không bị giới hạn, ở đó con
người thấy ḿnh nhỏ như một hạt cát và cũng lớn như vũ trụ, bởi sống
và ư thức được đầy đủ thế nào là cái đẹp của khoảng cao rộng, bên
trong và bên ngoài ḿnh.
Bà cụ mở một ngăn tủ trao cho tôi lá thư. Trang giấy ngắn cũng không
có ǵ quan trọng. Diệu chỉ vắn tắt viết cho tôi, anh biết anh sắp
mất và hy vọng tôi sẽ ra thăm chỗ anh nằm ở ngoài trời, một ḿnh.
Tôi gập thư lại. Hỏi chuyện bà lăo già về những phút cuối cùng của
Diệu, bà cho biết Diệu thao thức ít ngủ. Và trong tuần lễ sau cùng,
luôn luôn đ̣i ra nằm gần cửa sổ. Diệu muốn thu vào trong đôi mắt hấp
hối những v́ sao một đời? Nhưng ngơ th́ hẹp tường th́ cao anh chỉ
thể đoán thấy mà không nh́n thấy. Tôi nghĩ vậy. Nếu được lựa chọn,
chắc Diệu đă muốn được nhắm mắt ở một mũi tàu trong chuyến đi đêm
trên sông, hoặc trên một bờ đê cao, giữa những khoảng rộng. Trong
một đêm rất nhiều sao sáng.
*
Nhiều năm qua đi. Phố Hiến cổ cũ, Sơn Tây đẹp buồn, những bờ đê cỏ
mướt, không có bước chân tôi trở lại thăm viếng, v́ xa cách và thiếu
cơ hội. Tôi cũng đi nữa những chuyến tàu đêm trên Hồng Hà. Nhưng
trước khi dời Hà Nội vào Nam, tôi có đến thăm mộ Diệu. Chia tay với
người chết vậy mà cũng rưng rưng đau đớn như với người c̣n sống. Bà
cụ già đă làm theo ư muốn cuối cùng của đứa cháu ngoại mất sớm. Mộ
Diệu đặt trên một thửa ruộng cao. Trước mộ là đất trải đi mênh mông,
và trời xanh không vướng khuất. Chiều đến thăm mộ bạn, tôi đă ngồi
xuống bên cạnh nấm đất. Cỏ úa màu nắng chiều. Tôi quay lưng với Diệu
trở lại thành phố. Cuộc sống của người ở đây ngắn ngủi vụt đi như
một hành tinh lạc đường. Nhưng đẹp và trọn vẹn. Bây giờ Diệu, có thể
hoàn toàn theo dơi những v́ sao của anh. Nếu cơi chết là h́nh ảnh
của đêm th́ những v́ sao đă thuộc của riêng anh. Tôi trở lại thành
phố trên những con đường đă chạng vạng bóng tối. Đầu óc tôi váng vất
một nhịp đẩy đưa bồng bềnh. Thời gian. Bánh xe lăn. Đôi cánh trắng
muốt. Ư nghĩa trường tồn của một cái ǵ không vĩnh cửu. Và người
bạn, như một v́ sao, c̣n sáng măi trong tôi.
*
Tôi sẽ không bao giờ nói trở lại những v́ sao của Diệu – có những
cái đẹp, đẹp đến nỗi người ta chỉ muốn giữ một ḿnh và không muốn
nhắc nhở tới – nếu tôi không t́nh cờ đọc một đoạn văn của một người
bạn trong cuốn sách anh vừa tặng tôi chiều nay. Đoạn văn nói rằng
thái độ trở về với dĩ văng là một triệu chứng tâm hồn yếu đuối.
Nhưng mà dĩ văng nào? Đoạn văn không làm tôi để ư nếu người viết
không đả động tới những v́ sao: “Những v́ sao đă tắt đêm qua như
những sự gục ngă tối tăm. Con người phải đi trên đường đi của mặt
trời”. Tôi lấy bút ch́ gạch dưới câu văn. Tự nhiên tôi nhớ đến Diệu,
đến những v́ sao cũ. Tôi mặc áo ra khỏi nhà. Qua những dăy phố chật
hẹp, chồng xếp lên nhau ở trung tâm thành phố, tôi đi dần ra mạn bờ
sông. Phố thưa dần. Mái nhà bờ tường cái nọ cách xa cái kia hơn.
Những hàng cây những bóng điện thấp xuống. Rồi th́ là sự hiển hiện
cao vút đột ngột của ṿm trời. Vẫn là một ṿm trời thành phố nhưng
một cảm giác rộng răi đă trải ra trước mắt tôi nh́n lên. Tôi dừng
bước trước bờ sông. Tôi ngồi trên một chiếc ghế đá. Đă lâu lắm, qua
rất nhiều năm nhiều tháng ngày, những v́ sao mới lại trở về qua ấn
tượng thứ nhất. Chúng đang đi xuống tôi. Nhấp nháy, linh động như
những tiếng nhắc nhở thầm. Tôi sống lại với Diệu. Tuổi mười bảy tập
Phương Sao với những vần thơ không bao giờ được in ra. Giá trị của
những sự kiện đă tàn hủy những ư nghĩa c̣n tồn tại. Cái đẹp khởi từ
nguồn gốc cũ vẫn như một ḍng ánh sáng thiết yếu cho đời người hôm
nay. Tôi sống hôm nay, cũng không tách biệt được với những cái ǵ đă
chết những người đă chết, với lịch sử với tâm hồn người đời đời.
Nhát dao chặt đứt ḿnh mẩy quá khứ th́ thi thể của hiện tại cũng
rách nát đau đớn. Ba phần thời gian chỉ là một. Tôi nghĩ miên man
như vậy. Chung quanh tôi là thành phố, ḍng nước chảy, những hàng
cây, những mái nhà, ṿm trời cao, đáy nước sao. Chúng tổng hợp lại
thành một thực thể tổng hợp. Tôi không thấy một khởi điểm riêng lẻ
nào. Những vần thơ tôi sẽ viết và sẽ được in ra sẽ c̣n cái hơi thở
của tập thơ buổi đầu. Làm cái việc ôn lại đời ḿnh qua những điều
chắt gạn ở cuộc sống một người đă khuất, tôi muốn tự đặt cho ḿnh
một thái độ. Con người phải đi trên đường mặt trời hướng vào tương
lai. Nhưng quá khứ đă làm tôi lớn lên. Tôi tưởng rằng nếu tôi có
hàng ngàn năm để làm cái việc thu lượm những cái đẹp, những v́ sao
từ quá khứ gửi tới th́ cái việc thu lượm đó sẽ không bao giờ hết. Và
tôi đi đến một kết luận: Cái đẹp nào cũng chứa đựng một h́nh ảnh của
quá khứ.
*
Cho tới lúc tôi dời bỏ chiếc ghế đá theo đường cũ trở về nhà th́ đêm
đă khuya. Gió mát rượi thổi qua thành phố ngủ yên. Trời đất bây giờ
như đă ḥa ḿnh hẳn vào với những ḷng đường. Bóng lá bóng nước.
Những v́ sao ở cùng với những hàng cây, những bờ tường, những biển
số trong một khung cảnh gần gũi thân mật. Tôi đi giữa sự gần gũi
thân mật này. Tôi tự bằng ḷng tôi. Tôi thấy tôi bớt lẻ loi. Chợt
nghĩ đến một cuốn phim xem đă lâu. Chuyện thuật lại những ngày trở
về buồn rầu của một người quân nhân sau trận đánh nhau lớn, những
đợt trọng pháo sấm sét dữ dội đă làm y mất trí nhớ. Y không nhận
được ǵ nữa. Y không biết ḿnh là ai, ở đâu. Người vợ chưa cưới ngày
xưa chỉ là một trong muôn ngh́n người đàn bà xa lạ. Gian pḥng cũ,
chỗ ngồi cạnh ḷ sưởi buổi chiều, chỗ ngồi buổi sáng ở ngoài vườn,
những hàng cây những bờ thềm, tất cả những những h́nh ảnh quen thuộc
ấy đều không giúp y nhận lại được nhà cửa quê hương, những người yêu
dấu, mặc dù ở đó y đă sống những ngày thần tiên và thơ mộng. Y như
giống người đến từ một hành tinh khác. Y đă mất quá khứ, như một
thân cây mất rễ. Những ngày tháng về trước đă nhạt nḥa dấu tích, ấn
tượng xa xưa chỉ là một vực đen sâu không cùng. Y sống cũng như
chết. Y chết giữa cuộc sống. Tôi không muốn làm người quân nhân trở
về sau cơn mê hoảng ấy, mất quá khứ, khiến cho hiện tại chỉ c̣n là
một nghĩa địa một sa mạc và đời sống là một cực h́nh. Tôi muốn nhớ
lại, luôn luôn được nhớ lại. Tôi nghĩ đến một thành phố hủy phá. Nhà
đổ cây sập. Gạch đá ngổn ngang. Tôi trông thấy cái cảnh tượng hoang
tàn đó những bầy thợ thuyền đang xây dựng lại nhà ở và đường đi. Tôi
cũng trông thấy những đoàn người lang thang lần ṃ từ đống gạch này
sang đống gạch khác trong một thái độ lầm ĺ đầy ư nghĩa, t́m kiếm
lại những dấu tích cũ. Một tấm ảnh. Một chiếc khăn quàng. Một chiếc
giày cũ. Họ muốn nhớ lại. Họ không muốn mất quá khứ. V́ họ c̣n muốn
sống. V́ họ biết rằng những bông hoa rực rỡ nhất của sự sống không
thể nở được, không bao giờ nở được, trên khoảng đất héo hon và giá
buốt là sự lạnh lùng thản nhiên và sự lăng quên nhau.
Hết
|
|
|
|