Người
Điên Dưới Chân Sườn Tam Đảo
|
- Mai Thảo
|
|
|
Thế là, giữa một buổi sáng Sài
Gòn rực rỡ, tin dữ mà gia đình tôi chờ đợi thấp thỏm suốt
mười năm ở bên này vĩ tuyến, đã từ bên kia vĩ tuyến mười bảy
bay sang. Bà ngoại tôi, người cuối cùng của dòng họ Nguyễn
còn ở lại miền Bắc đã tạ thế.
Hung tin thu gom trong mấy dòng bưu thiếp lời lẽ mơ hồ, ngày
giờ và chi tiết cái chết nghìn trùng cách trở không được nói
đến tường |
|
|
tận,
nhưng tôi, tôi biết bà ngoại đã nằm xuống ở đâu, cặp mắt nhân hậu
một đời nhỏ lệ xót thương kẻ khác ấy đã khép lại dưới vòm trời nào,
thước đất nào đã được bà lựa chọn gửi nắm xương tàn của một tuổi già
cô độc.
Thửa ruộng nhỏ nằm dưới chân một sườn đồi trọc. Đất đỏ rờ rỡ màu
máu. Thửa ruộng có một thân cây lớn nghiêng bóng, kế liền với một
con đường sỏi đá và cỏ bồng hoang vu, trên đầu là những đám mây
trung du và đám mây của một vòm trời trung du trắng xốp như bông nõn
ấy nổi chìm ở bên này và bên kia một vùng rậm rì xanh đặc là hai
sườn Tam Đảo.
Từ đỉnh núi, đổ xuống một ngọn thác trắng phau nhìn xa như một sợi
chỉ bạc. Từ cuối con đường hoang, vang lên tiếng vó ngựa lộc cộc về
chiều. Từ những xóm xa lọt vọng vào thị xã tiếng chầy giã gạo ba
trăng. Tự miền cao phả về cái hơi thở âm u của núi rừng Việt Bắc. Tự
miền dưới thổi lên cái hương thơm đầm ấm của lúa mạ đồng bằng. Người
ta khiêng quan tài bà từ căn nhà rêu phong cổ cũ đi ra, cách hàng
nghìn cây số tôi cũng hình dung thấy rõ ràng như vậy, đám táng kéo
dài trên con đường lả lay cỏ bồng, chiếc quan tài in lên nền trời
Tam Đảo, và nó được hạ huyệt trong thửa ruộng đó, không thể trên một
thức đất nghĩa địa nào khác. Bởi vì bà tôi, nếu đã ở lại, nếu đã
chối từ vượt tuyến cũng chỉ để được nằm xuống bên cạnh đứa con xấu
số của bà là bác Cả Đoàn. Bác Cả được chôn ở thửa ruộng ấy, mấy giờ
sau khi bác chết, cái thân thể trần truồng lỗ chỗ vừa đúng 17 vết
đạn liên thanh.
o0o
Câu chuyện xảy ra cách đây đã mười lăm năm. Nhưng thảm kịch của
người bác điên loạn, còn xảy ra lâu hơn nữa về trước, từ khi tôi còn
nhỏ dại. Tôi kể lại dưới đây. Vì cái chết của người bác điên rồ là
một trong những hiện tượng lạ lùng không bao giờ tôi giải thích
được.
Mãi mãi tôi còn nhớ tới những chuyến về thăm quê ngoại đó, chuyến xe
hàng cũ kỹ nổ máy từ tối đất nơi chân sóng rì rào của một xóm đạo
vùng biển ỳ ạch chuyển mình trên những con đường liên tỉnh trải đá
xanh hun hút. Những dốc đò rồi những bến phà. Dưới vành trời hắt hiu
của mùa đông miền Bắc, chiếc xe cũ kiên nhẫn nuốt dần từng cây số
trắng, thả lùi những xóm làng chài lưới về sau, tiến dần vào một
vùng rừng núi cằn cỗi. Ngọn Tam Đảo hiện ra trong sương chiều, đỉnh
núi chìm nhòe trong lớp mây xám loãng như một chiếc khăn choàng đánh
đai lấy nó. Rồi là niềm vui náo nức tràn trề trong gió rừng đổ xuống
khi chiếc xe trườn vào thị xã Vĩnh Yên le lói ánh đèn. Chiếc xe kéo
thả mẹ con tôi xuống một căn nhà cuối tỉnh lỵ.
Cha tôi đánh điện tín từ hôm trước. Và bà tôi ngồi đó, trước thềm
cửa, chờ đón chúng tôi. Bà chít khăn mỏ quạ, mặc áo bông ngắn. Mỗi
năm bà mỗi già, nhưng ánh vui mừng cảm động của đôi mắt vẫn ngời
lên, lấp lánh, khi tôi tự xe nhảy cẫng xuống, và mặc mẹ tôi quát
mắng không được lôi bà như thế, tôi kéo bà sềnh sệch vào nhà. Bữa
cơm, tôi ngồi chồm chỗm trên lòng bà, vòi quấy đủ thứ. Bà nấu chè và
làm mứt dừa ngon vô cùng. Chè bà cốt, màu mật đặc quánh, mùi gừng
thơm cay phảng phất trong mùi hương gạo nếp bùi ngậy. Dừa mật Vĩnh
Yên nổi tiếng miền Bắc, bà nấu thành một thứ mứt dẻo quyện, trong
suốt, đỏ thắm, đựng đầy trong một vò thủy tinh lớn. Những ngày về
thăm bà ngoại, dạ dày tôi căng phình, đuôi mép lúc nào cũng nhuếch
nhoáng màu đường màu mật. Vui thú không bút nào tả xiết. Thức dậy
sau một đêm ngủ vùi vì chuyến đi mệt nhọc, buổi sáng tôi chạy ra đầu
nhà, và cặp mắt của đứa nhỏ chỉ quen nhìn bãi cát và sóng biển trong
tôi đã ngó nhìn đến độ bàng hoàng ngây ngất ngọn Tam Đảo hiện hình
chất ngất trong buổi sáng trung du yên tĩnh, ngọn núi đứng đó, sừng
sững trước mắt như một hình ảnh thần linh hoang đường, với cả một
thế giới kỳ lạ, bí mật của nó ẩn kín ở sườn núi bên kia.
o0o
Chính là một trong những chuyến về Vĩnh Yên thăm ông bà ngoại mà tôi
biết đến sự hiện hữu của bác Cả Đoàn. Lần thứ nhất ngó thấy bác, tôi
đứng đờ người, mặt tái nhợt vì khiếp hãi. Đang nhảy nhót chung quanh
cái bể non bộ ở khoảng sân sau, tiếng gõ loong coong làm nhịp cho
một giọng hát ê a lạ tai ở căn buồng sát hông nhà bếp làm tôi ngừng
nhảy, tò mò tiến lại.
Qua khung cửa khép hờ, tôi nhìn thấy một người đàn ông. Râu ria và
đầu tóc người ấy xồm xoàm như một con thú. Người ấy khoác một tấm
bao bố trên vai, đóng khố ngồi khoanh chân trên nền đất nhớp nhúa
của căn buồng không có đồ đạc gì ngoài một tấm phản mộc. Hai chân
người ấy bị xích chặt. Cái xích quấn nhiều vòng chung quanh mắt cá,
đầu xích cột chặt vào một cái cọc gỗ chôn nghiêng.
Cảnh tượng người đàn ông gần như lõa thể bị cùm xích đột ngột hiện
ra làm tôi rợn người, nín thở, trái tim đậm thình thình trong lồng
ngực. Người đàn ông chưa nhìn thấy tôi. Hắn vẫn ngồi nguyên trong
dáng điệu cũ, mắt nhắm nghiền, hai tay cầm hai mảnh que nhỏ loong
coong lên đít một cái ống bơ sữa bò lật úp, miệng ê a như một thầy
bùa đang tụng niệm.
Hắn cứ ê a và cứ nhắm nghiền mắt mà gõ loong coong không ngừng trên
nắp ống bơ như thế một hồi lâu, thần trí như đắm chìm hoàn toàn vào
một thế giới mơ hồ nào đó. Tôi tròn xoe mắt, nhìn ngắm không chớp.
Tôi không biết người đàn ông cởi trần bị xích chân và đang ê a hát
nhảm ấy là ai. Tại sao hắn ở trong nhà bà ngoại tôi? Tại sao hắn bị
cùm xích như thế? Ông tôi, bà tôi, mẹ tôi, không một ai nói chuyện
cho tôi về hắn, về sự hiện hữu của hắn trong căn nhà này, dù chỉ một
lần.
Bỗng dưng, một tiếng động làm người đàn ông bừng tỉnh. Hắn mở choàng
mắt, ngừng hát ngừng gõ. Thấy tôi đứng đó, hắn trợn mắt nhìn rồi
thình lình hắn chỉ thẳng chiếc que vào mặt tôi, và cười nhe hàm răng
trắng ởn. Tôi chỉ kịp rú lên khiếp hãi rồi quay đầu, cắm cổ chạy bay
lên nhà trên.
Tôi còn nhớ khi tôi vừa thở vừa kể chuyện cho bà tôi về người đàn
ông nhìn thấy dưới căn buồng hông bếp, bà tôi và mẹ tôi đã đưa mắt
nhìn nhau, cái nhìn trao đổi ấy cực kỳ buồn rầu và chua xót.
Tôi níu áo bà, hỏi dồn:
“Ai thế, bà ngoại?”
Mẹ tôi trừng mắt mắng át:
“Trẻ con biết gì mà hỏi. Cấm mày không được xuống đó nữa, nghe
không?”
Thấy tôi phụng phịu sắp khóc, bà ngoại kéo tôi vào lòng, vuốt tóc.
Bà nói, giọng nghẹn ngào nước mắt lưng tròng:
“Cháu nó biết gì mà mắng nó! Bác Cả Đoàn đấy cháu ạ! Mẹ bảo cháu
phải nghe, cháu đừng lảng vảng xuống gần chỗ bác Cả nữa nhé!”
“Tại sao thế bà ngoại?”
Bà tôi ngập ngừng nói:
“Vì bác ấy điên”.
Mãi mấy năm về sau, khi lớn khôn hơn, tôi mới được mẹ tôi nói chuyện
về bác Cả Đoàn. Bác là con trưởng và là người con trai độc nhất của
ông bà tôi. Theo lời mẹ tôi thuật lại, bác thông minh và hiền từ vô
cùng. Ông bà tôi cho bác ra Hà Nội học, đến khi đỗ bằng cao đẳng
tiểu học, bác Cả ở luôn ngoài Hà Nội, làm thư ký cho một hãng buôn
lớn, thỉnh thoảng mới về Vĩnh Yên thăm ông bà tôi, thường thường là
vào cuối mùa gặt để làm giúp ông tôi sổ sách về thóc lúa thu hoạch
được. Gia sản của ông tôi ước chừng vài ba chục mẫu ruộng ở các miền
kế cận thị xã, những thửa ruộng nằm rải rác trong những thung lũng,
những chân đồi trước mặt ngọn Tam Đảo. Đường sá miền trung du gập
ghềnh núi đồi cheo leo, đó chỉ là một hệ thống thiên nhiên của những
lối mòn đổ xuống thung này vắt qua lũng khác, xe cộ không thể đi
tới, nên mỗi lần đi thăm ruộng ông tôi vẫn phải dùng ngựa. Ông tôi
có một con ngựa hồng, khi nào không cưỡi vẫn thả rông cho ăn cỏ ở
khoảng đồi thấp sau nhà.
Năm đó – năm xảy ra bất hạnh – bác Cả từ Hà Nội về giữa lúc ông tôi
bị đau nặng. Thế là bác Cả sáng sáng cưỡi ngựa đi thăm ruộng thay
cha. Buổi sáng hôm đó, bác cũng cưỡi ngựa phóng nước kiệu ra khỏi
nhà đi thăm mấy thửa ruộng gặt dở trong thung như thường lệ.
Đến nơi, bác thả ngựa cho ăn cỏ ở một bóng cây, chạy xuống chuyện
trò vui vẻ với đám thợ gặt. Sự tình cờ tai hại là thửa ruộng ấy sát
liền với thửa ruộng của một điền chủ khác, người này hôm ấy cũng
cưỡi ngựa đến thăm ruộng mình và cũng thả ngựa cho ăn cỏ dưới cùng
một bóng cây. Một lát sau, những tiếng hí vang lên. Tiếng móng đập
loạn xạ. Hai con ngựa đá nhau dữ dội. Hoặc là bác Cả không biết khi
hai con ngựa đá nhau như thế là cực kỳ nguy hiểm, hoặc là bác sợ con
ngựa của ông bị thương – không biết – chỉ biết bác chạy lao tới, kéo
con ngựa của ông tôi ra, và liền bị nó đá hậu một đá trúng giữa
khoảng bụng dưới. Bác thét lên một tiếng đau đớn rồi ngã vật xuống,
ngất đi.
Khi đám thợ gặt khiêng bác về nhà, ai cũng tưởng bác bị ngựa đá
chết. Rờ tim, còn đập thoi thóp, nhưng bác vẫn mê man không hồi tỉnh
lại được. Bà ngoại tôi cuống cuồng, kêu thóc thảm thiết. Phương kế
nào cũng không làm bác tỉnh lại. Cho đến khi một người hàng xóm mách
bà tôi cho bác uống mật gấu. Chất mật gấu có một tác dụng kích thích
cực kỳ mãnh liệt. Chỉ mười lăm phút sau, bác Cả cựa mình và mở mắt.
Có điều là thương con quá độ, muốn cứu con mau chóng, bà tôi đã đổ
vào miệng bác quá nhiều mật gấu. Sau tai nạn, bác khỏe mạnh như
người thường. Nhưng một năm sau, chất mật gấu bắt đầu phá phách cơ
thể và thần trí: bác Cả Đoàn phát điên. Bà tôi đau đớn ra tận Hà Nội
đón đứa con điên loại về Vĩnh Yên, nhất định không chịu để người ta
đưa bác vào nhà thương Vôi, là nhà thương người điên ở miền Bắc thời
bấy giờ.
Sự buồn thảm như một đám mây đen tối đổ dồn vào mái nhà êm ấm, biến
nó thành địa ngục và nhà mồ. Ông tôi giết con ngựa phản chủ, suốt
ngày ngồi lặng lẽ trên góc phản, khuôn mặt u uất rắn lạnh như chưa
thôi đau đớn trước một thất đức tiền kiếp nào đó, bây giờ hiện thân
thành trừng phạt mà người phải gánh chịu qua chứng điên loạn của
người con. Bà tôi thì cả ngày vật vã khóc lóc. Nhà có người điên nên
bạn bè thân thuộc cũng xa lánh dần dần. Sự thật là ông tôi đóng kín
cửa không chịu tiếp ai, trong nỗi đau âm thầm có pha lẫn một niềm
tủi hổ mà sống người để bụng, chết người mang theo, vĩnh viễn không
bao giờ xóa bỏ được.
Căn nhà chứa lúa dưới hông bếp không dùng làm gì nữa – ông tôi đã
bán rẻ hết ruộng đất sau tai họa – biến thành cái thế giới lưu đầy
bé nhỏ cho bác Cả sống với những hình ảnh quái dị nhảy múa trước
mắt, nơi sự tỉnh táo sáng suốt chỉ còn là những vùng thư thái thu
hẹp như những giọt nắng thoi thóp cuối cùng của một vòm trời bão
giông. Căn bệnh không thuyên giảm, ngày một trầm trọng thêm mãi cho
đến khi mọi phương sách cứu chữa tuyệt vọng đều uổng công.
Mấy tháng đầu, cơn điên chập chờn trong một trạng thái mất trí hiền
lành. Bác Cả cười khóc rồi lăn ra ngủ. Bác ngủ suốt ngày suốt đêm,
đầu ghếch lên một góc tường, tay chân co quắp, như một con chó ốm.
Sau, chứng bệnh nặng dần. Cái thế giới bệnh hoạn ngột ngạt nung nấu
biến con vật hiền lành thiêm thiếp thành một con thú dữ tợn, mỗi lần
nổi cơn là một lần đập phá gào thét khủng khiếp. Tóc bạc mọc dài ra,
râu ria xồm xoàm. Rớt rãi sùi trắng hai bên mép. Con mắt trợn trừng
đỏ rực màu máu. Đêm đêm tiếng gầm rú của người điên vang động khắp
khu phố, như lan xa tới vách Tam Đảo và vang trở lại, gợi trong nó
cái âm thanh rùng rợn của một con hổ vằn tử thương tru rống từ một
đáy rừng sương.
Một buổi chiều nóng nực, bác Cả phát cơn điên đã chạy lên nhà đập
phá loạn xạ. Rồi vớ được một gióng cửa gỗ lim, bác thẳng cánh quất
xuống đầu ông tôi máu chảy lênh láng. Từ đó, mặc dù bà tôi phản đối,
ông tôi cho xích bác lại. Người điên khỏe lạ lùng. Cái dây xích lớn
thế, cái cọc đóng sâu vào nền đất như thế mà nhiều lần bác thét rồi
vươn tay nhổ phăng cọc, cứ trần truồng ôm xích mà chạy túa ra đường.
Bác vừa chạy vừa hò hét, cứ nhắm hướng Tam Đảo tiến vào. Phải hàng
chục người trai tráng trong phố mới chế ngự được bác sau một cuộc
vật lộn dữ dội.
Người độc nhất mà bác còn nể sợ là bà tôi. Đang gào thét, chửi rủa,
đập phá, chỉ cần bà tôi đến ngó bác bằng cái nhìn đẫm lệ và dịu dàng
nói: “Cả, làm gì thế con?” là bác im ngay, bác từ từ ngồi xuống, cái
nhìn nem nép cúi gằm như một đứa nhỏ phạm tội. Tình thương đó của bà
tôi là dòng ánh sáng duy nhất còn chiếu soi được vào vùng tối đặc mê
mẩn, là trận mưa duy nhất còn đổ xuống và thấm lắng được vào thần
trí bác như một vùng đất đai khô cằn, làm nở lên những bông hoa.
Nhưng tình thương đó chỉ là một liều thuốc an thần chốc lát. Căn
buồng chứa thóc ngày trước ở hông bếp là một địa ngục vĩnh viễn giam
cầm bác Cả tôi trong cái thế giới cô độc của kẻ mất trí, cái thế
giới rùng rợn của người điên.
o0o
Từ ngày biết rõ chuyện bác Cả như thế, tôi vẫn được mẹ tôi hằng năm
cho về thăm bà ngoại. Tôi sợ, nên chỉ quanh quẩn trên nhà, đôi khi
lảng vảng xuống khoảng sân sau cũng chỉ dám đứng ngó bác thấp thoáng
trong căn buồng mờ tối từ xa. Cho đến khi cuộc chiến tranh đột ngột
bùng nổ, cắt đứt đường về thăm quê ngoại. Hai năm trôi qua như thế,
rồi là một tin buồn từ ngọn Tam Đảo vượt qua nghìn trùng cách trở
xuống với gia đình tôi ở dưới biển: ông ngoại tôi tạ thế. Mẹ tôi
khóc ngất, thương cha chết một phần, thương người mẹ già một thân
một mình lủi thủi kéo lê cái tuổi già buồn thảm dưới bóng núi xa đến
mười phần.
Tôi còn nhớ năm đó là một mùa đông cực kỳ buốt lạnh. Sau một đêm bàn
bạc, cha tôi bằng lòng để mẹ tôi tìm đường lên Vĩnh Yên đón bà ngoại
xuống ở với gia đình tôi. Mọi đường giao thông trên bộ đã bị gián
đoạn hết, phải chuyển vận bằng thuyền. Vì chuyến đi nguy hiểm gian
lao, tôi phải năn nỉ vòi vĩnh mãi mới được mẹ tôi cho phép đi theo.
Ngày đi đêm nghỉ, chiếc thuyền nan ngược dòng, vượt nhánh sông này
tới nhánh sông khác, len lỏi qua các mặt trận, tránh xa những vùng
súng đạn, ròng rã đúng vào nửa tháng mới tới được cái bến đá hẻo
lánh dưới chân ngọn Tam Đảo.
Bấy giờ, từ mạn cầu Đuống tràn ngược lên qua Hương Canh, Phúc Yên,
cánh quân mở đường của Pháp đã tiến dần đến thị xã. Chúng tôi đặt
chân vào căn nhà rêu phong cổ cũ đúng ngày bà ngoại tôi đang sửa
soạn tản cư vào núi. Đứa trẻ đã lớn, đã biết nhận xét ở tôi, chuyến
cuối cùng về thăm quê ngoại đó, thu vào tầm mắt nó những hình ảnh
cực kỳ buồn thảm. Bà tôi đã già, già lắm. Bà vẫn đội cái khăn mỏ
quạ, mặc cái áo bông ngắn như cũ, nhưng ánh lửa nhân hậu sưởi ấm
những tháng ngày thơ dại của tôi đã tắt trong cặp mắt nhòe mờ, khuôn
mặt tươi cười thuở nào chỉ còn là một vùng héo hon đầy những nếp
nhăn, in hằn những đường rãnh nước mắt không thôi chảy ròng từ ngày
đứa con trai độc nhất bị ngựa đá thành điên. Cùng với tiếng súng của
một thời loạn lạc ầm ĩ dội tới từ đầu thị xã, buổi tối mùa đông dầy
đặc khí núi thổi lùa từng đợt lạnh căm căm vào căn nhà le lói ánh
đèn, nơi mẹ tôi và bà tôi ngồi thao thức bên đống hành lý gói buộc
sẵn sàng trong đêm dài kinh hoàng, chờ buổi sáng tới để chạy ẩn vào
hang núi. Những tiếng thở dài não nuột phát ra từ hai cái bóng âm
thầm. Bỗng mẹ tôi hỏi:
“Còn bác Cả”.
“Mẹ cũng chưa biết tính sao đây, bà ngoại vừa khóc vừa nói. Nó điên
loạn như thế cùm xích bao nhiêu năm rồi, bây giờ tháo xích đưa nó đi
theo, biết nó chịu đi không? Nó nổi cơn lên thì làm thế nào chứ! Mà
để nó ở lại thì thà mẹ ở lại đây cho lính Tây nó bắn chết còn hơn”.
“Hồi này bệnh tình anh con ra sao? Mẹ tôi hỏi”.
Bà tôi gạt nước mắt nhìn xuống phía nhà bếp:
“Mỗi ngày một nặng thêm. Trước nó còn chịu nghe mẹ, bây giờ mê loạn
hoàn toàn rồi, bảo gì cũng không chịu nghe nữa”.
Tôi cứ nằm nghe tiếng đại bác ầm ì và tiếng nói chuyện rì rầm như
thế rồi ngủ đi trên gối bà lúc nào không hay. Khi mẹ tôi lay vai
đánh thức dậy, trời đã tảng sáng. Tiếng súng lớn vọng tới trong đêm
giờ đã biến thành tiếng liên thanh tặc tặc réo réo từng hồi, thật
gần, rõ mồn một, tưởng như đã nghe thấy tiếng giầy đinh, tiếng sì sồ
của quân Pháp ở ngay đầu phố.
Mẹ tôi và bà đeo khăn gói lên vai hấp tấp đi xuống căn buồng bên
hông nhà bếp. Phút quyết liệt đã tới. Bà tôi mở cánh cửa gỗ, mẹ tôi
rón rén đi theo, cùng tiến vào chỗ bác Cả Đoàn nằm. Tôi nín thở,
đứng nép sau lưng bà. Cái bao bố rách tơi tả phủ lên một thân hình
gầy đét đến xương, bác Cả nằm nghiêng, quay mặt vào tường, sợi dây
xích đen nhảy căng thẳng từ cổ chân bác tới đầu cọc. Mùi cứt đái
xông lên nồng nặc khiến tôi nôn ọe bịt vội mũi lại. Cái ống bơ và
hai thanh tre, thú tiêu khiển và cũng là bạn bè độc nhất suốt một
đời của người điên – tôi nhìn thấy ở nguyên chỗ cũ, dưới chân bác.
Bác nằm, nhưng không ngủ. Tiếng nôn ọe của tôi làm bác bất thần quay
ra và ngồi vụt dậy. Tôi hoảng hốt không giữ được tiếng thét sợ hãi.
Mọi người chờ đợi những tràng dài quát tháo nguyền rủa nổi lên.
Nhưng không, bác lùi vội lại một bước như con thú dữ thu mình, tròn
xoe mắt, nhìn bà tôi không chớp. Mẹ tôi gạt nước mắt đứng yên. Bà
tôi ngồi xuống. Bằng một giọng nói hết sức dịu dàng, rành rọt từng
tiếng một, bà tôi cắt nghĩa cho bác là quân Pháp đã tràn vào thị xã,
chúng tôi phải bỏ nhà tản cư vào núi và xuống đây đem bác đi theo.
“Con bằng lòng đi theo mẹ không?”
Bác Cả nín thinh, rồi cái nhìn vụt chuyển thẳng từ bà tôi tới tôi
khiến tôi thất thần lạnh toát người đi.
“Con giai em con đó, mẹ con nó lặn lội từ dưới bể lên thăm con đó”.
Bà ngoại quay lại tôi:
“Cháu chào bác Cả đi. Bác yêu cháu lắm. Cháu chào bác đi”.
Tôi nhợt người, ấp úng mãi mới nói được với người điên:
“Lạy bác ạ!”
Bác vẫn nín thinh trong dáng điệu thủ thế cũ. Bà tôi ngồi xích lại
gần bác, nghẹn ngào:
“Con thế này, sống cũng như chết rồi, mẹ chẳng muốn đưa con ra khỏi
chỗ này làm gì, nhưng Tây nó đến, mẹ bỏ con lại không đành, con nghe
lời mẹ, con đừng giận dữ, con đi theo mẹ nhé!”
Bác vẫn nín thinh và nhìn ngó trừng trừng. Bà tôi ngọt ngào dỗ:
“Bây giờ mẹ cởi xích cho con”.
Miệng nói bà tôi thò tay vào chân bác. Bác Cả rút phắt chân lại. Dây
xích căng thẳng, tiếng kêu loảng xoảng trong căn buồng tối nhờ nhờ.
Nhưng tình thế nguy ngập không thể chùng chình được nữa.
“Mẹ cứ cởi xích cho con rồi con có giết chết mẹ, giết chết em, giết
chết ngay lập tức, mẹ cũng đành, nhưng mẹ không thể bỏ con ở lại một
mình được, mẹ phải cứu con, mẹ phải đưa con đi, mẹ con ta sống chết
phải có nhau”.
Bà tôi vừa khóc sướt mướt, vừa mếu máo tra cái chìa vào ổ khóa. Rồi
mẹ tôi và tôi cũng ôm mặt khóc theo. Tiếng khóc vang đầy căn buồng
hòa lẫn với tiếng đạn liên thanh tặc tặc nổi dậy, mỗi phút một gần
thêm mãi. Vòng xích cuối cùng đã tháo hết, bác Cả như một con thú dữ
bị gông cùm bao nhiêu năm qua vừa được thả lỏng. Giây phút cực kỳ
căng thẳng. Chúng tôi cứng người, chờ bác chồm dậy, thét lớn, vung
xích quật xuống.
Nhưng lạ lùng, nhưng kinh ngạc xiết bao! Bác Cả từ từ đứng dậy. Và
trong một dáng điệu hết sức từ tốn, đĩnh đạc, bác tiến lại trước mẹ
tôi, giơ cánh tay trần khẳng khiu đặt lên vai mẹ tôi, cử chỉ thân
mật âu yếm của một người anh đối với người em gái lâu ngày mới gặp:
“Cô Hai đấy ư? Bây giờ cô chú xuống làm ăn dưới biển ư? Chú ấy vẫn
mạnh đấy chứ?”
Sự kinh ngạc làm mẹ tôi mãi mãi mới trả lời được hai tiếng ngắn cộc:
“Vâng ạ”.
Mà không riêng gì người, bà tôi và tôi đều cùng sững sờ trong kinh
ngạc tột điểm. Bao nhiêu năm điên loạn, thốt nhiên, trong giây phút
thập tử nhất sinh này, bác Cả đã tỉnh dậy, như tỉnh dậy sau một giấc
ngủ bằn bặt, như sống lại sau một cái chết dài.
“Ông mất rồi, tôi bệnh hoạn như thế này, bà già yếu không còn ai
nương tựa, chỉ còn mình cô chú. Cô chú thay tôi chăm sóc bà nhé!”
Mẹ tôi giàn giụa nước mắt gật đầu.
Bác Cả quay lại, mỉm cười tiến đến trước mặt tôi, cái bao bố kéo lệt
xệt trên nền đất.
“Tên cháu là gì?”
Phút đó tôi vẫn khiếp hãi, nhưng sự khiếp hãi không còn như trước
nữa. Tôi nhìn cái khuôn mặt râu ria xồm xoàm, nhớp nhúa, tiều tụy
nhưng đầy những nét đẹp cân đối, tôi nhìn cái thân hình giơ xương,
cái mái tóc màu tro phủ xuống kín gáy, rồi tôi nuốt nước bọt, cố
gắng chế ngự sự hồi hộp, dõng dạc trả lời bác:
“Thưa bác, tên cháu là Đăng”.
Bác Cả nhoẻn miệng cười, xoa đầu tôi, nhắc đi nhắc lại:
“Tốt lắm, tốt lắm, tốt lắm”.
Cuối cùng, bác quay sang bà ngoại mà nỗi mừng vui xúc động mãnh liệt
vừa bật thành tiếng khóc nức nở.
“Con không điên nữa đâu. Bây giờ con không điên đâu. Mẹ đừng sợ, mẹ
đừng khóc nữa”.
Qua khung cửa, trời bật sáng rõ. Cùng với ngày vừa lên, tiếng giầy
đinh rầm rập, tiếng xì xồ quát tháo lạ tai của toán lính Pháp hung
dữ nhất tề nổi lên ở đầu phố.
Bác Cả lắng tai nghe ngóng. Mắt bác sáng quắc. Bác nhảy vọt một bước
ra sân, vơ lấy cái gióng cửa dựng ở bên thành bể non bộ, cái gậy mà
trong một cơn điên ngày nào bác đã đánh ông tôi chết ngất. Theo
tiếng gọi của bác chúng tôi líu ríu ra khỏi nhà, lếch thếch chạy
ngược về phía chân núi. Ngọn Tam Đảo mờ mờ trong sương sớm. Ra đến
đầu tỉnh chúng tôi đặt chân vào con đường dẫn lên đồi còn ướt đẫm
sương. Chúng tôi vừa chạy vừa thở hổn hển, chân cẳng run bắn muốn
ríu lại, muốn té quỵ, vì ở phía sau lưng những tiếng đạn, tiếng
giầy, tiếng xì xồ vẫn đuổi theo rất gấp. Những đám người chạy cùng
với chúng tôi khi nhìn thấy bác Cả, mình đeo khố tải, tay cầm gậy
lớn, đều kêu lên thất thanh: “Người điên! Người điên!” và chạy tán
loạn về phía khác. Tôi chạy tưởng chừng sắp muốn đứt hơi. Bà tôi mấy
lần lảo đảo chỉ muốn ngã sấp xuống. Bác Cả đi tập hậu, cứ kéo lết
bết cái bao tải như thế, vừa chạy vừa ngoái cổ lại. Trên con đường
vắng tanh, lởm chởm, chỉ còn bốn bà cháu chúng tôi cuống cuồng, lếch
thếch trước những tràng đạn đuổi theo veo véo trên đầu.
Bỗng tiếng bác Cả cất lên:
“Chúng nó! Chúng nó!”
Chúng tôi rú lên, cùng ngoái cổ nhìn lại. Thấp thoáng ở xa xa, đầu
con đường đầu tỉnh, những đầu lưỡi lê nhấp nhổm, sáng loáng. Cùng
lúc đó, bà tôi kiệt sức, ngã vật xuống. Bác Cả chạy đến, xốc bà
ngoại dậy. Bà tôi vừa khóc vừa thở:
“Thôi đành là mẹ con ta chết ở đây. Mẹ không chạy nổi nữa, con ơi!”
Tôi thấy bác Cả đẩy bà ngoại cho mẹ tôi đỡ lấy, bác nghển cổ nhìn tứ
phía, rồi bác chỉ tay cho mẹ tôi nhìn thấy một con đường nhỏ chạy
tắt xuống thung lũng um tùm.
“Cô đưa bà và cháu chạy xuống dưới kia”.
Mẹ tôi còn ngơ ngác do dự bác đã giục hối hả:
“Mau lên. Chạy xuống ẩn dưới đó đi”.
“Còn bác?”
Bác Cả lần lượt nhìn cả ba chúng tôi bằng một cái nhìn lạ lùng, một
cái nhìn chứa chan, nồng nàn, như gửi vào đó tất cả những thương yêu
một đời, rồi bác mỉm cười nói:
“Tôi chạy theo sau mà. Mau lên, trời ơi, mau lên”.
Mẹ tôi quẳng vội khăn gói, một tay dìu bà, một tay dắt con, cắm đầu
chạy xuống con đường nhỏ. Đạn nổ đinh tai nhức óc. Chạy tới một vùng
cỏ dại cao ngang tầm người, mẹ tôi vấp kéo theo bà tôi và tôi cùng
ngã xuống.
Nhìn lên, mẹ tôi kêu lên một tiếng sợ hãi. Thì ra bác Cả không chạy
theo chúng tôi, mà từ con đường cao, bác chạy sang phía bên kia, bác
chạy thẳng lên đỉnh đồi.
Suốt đời, tôi còn nhớ thân đến cái cảnh tượng lạ lùng, kinh dị đó.
Thân hình bác Cả nổi lên nền núi xanh thấp thoáng nắng sớm, cái khổ
tải lất phất như một cánh bướm, như không phải là bác đang chạy mà
đang là là bay. Điều kỳ dị là bác chạy dềnh dàng, chuệnh choạng,
chân nam đá chân xiêu, như người sau rượu. Điều kỳ dị nữa là bác vừa
chạy như thế, vừa vung tít cái gậy trên đầu, vừa ngoái cổ lại, gật
gù như vẫy như gọi bọn lính đuổi theo, miệng thì ca hát ê a, tiếng
ca hát ê a tôi đã từng nghe thấy trong những cơn điên của bác.
Bà tôi và mẹ tôi cùng thét lên:
“Trời ơi! Lại nổi cơn điên rồi”.
Nhưng không phải thế đâu. Bác Cả không điên. Bác Cả chỉ đang cứu
chúng tôi thoát khỏi ba cái chết thảm khốc. Sau này, càng nghĩ càng
nhớ đến cái nhìn cuối cùng của bác, cái nhìn chan chứa yêu thương
không nói, tôi càng tin là đúng, là chỉ có thể như thế, là lần duy
nhất trong đời, điên đã tỉnh rồi, đã giả bộ múa hát điên điên dại
dại, để dụ quân Pháp về một hướng khác, đánh lạc đường chúng đuổi
theo chúng tôi.
Và bác đã thành công, toán lính đuổi tới chỗ bà tôi ngã, đứng khựng
lại trước cảnh tượng kỳ quái đang diễn ra trước mắt chúng trên ngọn
đồi trọc. Tới đỉnh đồi, bác Cả quay lại, hoa chân múa tay, miệng vẫn
hò hát, như thách thức đám lính đuổi theo. Một tràng đạn xé tan
không khí. Từ đám cỏ hồng, tôi thấy bác Cả lảo đảo, cái gậy trong
tay bác hạ xuống, bác loạng choạng đi trở xuống, tay ôm ngực. Một
tràng đạn thứ hai nổi lên. Bác Cả ngã vật xuống. Quân Pháp chụm đầu
bàn tán, ý chừng còn thảng thốt trước sự xuất hiện quái đản của
người khùng. Rồi chúng quay trở lại, kéo nhau về thị xã.
Chúng tôi thoát chết.
Khi bà tôi lên tới đỉnh đồi và nức nở quỳ xuống, bác Cả đã tắt thở
từ lâu. Con mắt một nửa đời người vẩn đục màu máu điên loạn chỉ còn
là một khối đồng tử bất động. Cái bao tải phủ ngang thân thể bác như
một màn vải liệm. Chiếc gậy lớn vẫn cầm lăm lăm trong tay. Bác Cả
nằm nghiêng nghiêng, nét mặt hiền hòa, cái nhìn ngước lên như hướng
tới đỉnh núi Tam Đảo cao ngất bây giờ đã rực rỡ dưới nắng.
Bà tôi vuốt mắt cho bác. Buổi trưa hôm đó bà tôi xõa tóc, đi theo
xác con đến tận bờ huyệt đào ngay trong thửa ruộng chân đồi, dưới
bóng cây, nơi khi xưa, bác Cả Đoàn đã bị con ngựa hồng của ông tôi
đá một phát vào bụng dưới thành điên.
o0o
Trở về căn nhà rêu phong cũ, bà tôi quét dọn lại căn buồng chứa lúa
ngang hông nhà bếp, dọn giường chiếu xuống đó, sống những ngày già
yếu cuối cùng của đời bà ngay trên thước đất nơi bác Cả bị xiềng
xích ngày trước. Chỉ còn một thân một mình nhưng bà tôi nhất định ở
lại nơi này, trong căn buồng của người con điên, và bỏ luôn ý định
xuống miền biển, sống với gia đình chúng tôi, mẹ tôi năn nỉ thế nào,
khóc xin đến mấy cũng không lay chuyển được. Ngày sắp di cư vào Nam,
cả thầy mẹ tôi cùng lên Vĩnh Yên, đón bà cùng đi. Nhưng bà tôi không
chịu. Và bà đã ở lại. Bà bảo mẹ tôi:
“Mẹ già rồi, không đi đâu nữa. Mẹ ở lại chờ chết trong căn buồng này
là nơi thằng Cả nó đã sống, đêm đêm mẹ vẫn mơ thấy nó hiện hồn về”.
Trên cái bàn thờ nhỏ của bác Cả Đoàn được thiết lập ở một góc buồng,
bà tôi dựng cái gậy bác Cả còn cầm ở trong tay cho đến lúc chết. Và
trên bàn thờ, dưới ánh khói hương, là cái ống bơ sắt cũ và đôi gậy
tre là những dấu tích cuối cùng của một cuộc đời điên loạn.
o0o
Bây giờ bà tôi đã chết. Tấm bưu thiếp ngắn ngủi từ bên kia vĩ tuyến
không nói rõ bà tôi nằm xuống ở đâu, trút hơi thở cuối cùng trên
thước đất nào. Nhưng tôi, tôi nhìn thấy rõ ràng cái chết nghìn trùng
cách trở ấy. Người bà ngoại nhân hậu vì quá thương con, cho con uống
quá nhiều mật gấu đến nỗi thành điên, đã khép mắt trong căn buồng
ấy, nơi mãi mãi phảng phất tiếng ê a lạ tai và tiếng đũa gõ loong
coong đêm ngày trên nắp cái ống bơ lật úp của người điên đã chết cho
những người thân yêu được sống. Phải, bà ngoại tôi chỉ có thể chết
trong căn buồng ấy. Không thể chỗ khác. Và người ta cũng chỉ có thể
chôn cất bà ở chỗ ấy, cho người mẹ già được ngủ giấc ngủ nghìn đời
với người con điên trong thửa ruộng dưới chân đồi nhìn lên một sườn
Tam Đảo. Không thể ở chỗ khác.
Có một điều là: sau bao nhiêu năm, tôi vẫn ngạc nhiên và vẫn tự hỏi
về cái hiện tượng lạ lùng là sự thức tỉnh sáng suốt cuối cùng và đột
ngột của bác Cả Đoàn. Tiếng súng đạn đinh tai nhức óc đã làm bác
chợt tỉnh cơn điên loạn triền miên? Hay là vì những giọt nước mắt
hãi hùng của chúng tôi trong buổi sáng thập tử nhất sinh đó? Hay vì
tôi, vì cái khuôn mặt thơ dại của đứa cháu vô tội? Không biết. Có
thể là vì những nguyên nhân huyền bí, siêu hình nào đó đã cấu tạo
thành linh hồn và sự thật dị thường không khám phá nổi, niềm bí mật
nghìn đời ẩn giấu của thế giới người điên.
Chỉ biết rằng, buổi sáng hôm đó, trước cái chết đến gần, bác Cả Đoàn
đã tỉnh dậy. Và nhờ sự sáng suốt độc nhất, chốc lát, của cuộc đời
điên loạn ấy mà tôi còn được sống đến ngày nay.
Hết
|
|
|
|