Nam yên lặng dẫn đường cho tôi trong cái không khí thoáng
mát của núi rừng sau một trận mưa lớn, thung lũng đă nổi gió
vẫn c̣n nghi ngút hơi nước trắng đục. Có thể nắng. Cũng có
thể mưa. Cái khoảng xanh ở phía đầu núi mở rộng hơn. Tôi
nh́n đường vai Nam in hẳn vào trong khoảng xanh này.
Bỗng Nam hỏi tôi:
“Thế nào, lạ lắm phải không?”
Từ một ngày nào biết anh và yêu mến cái con người cứng rắn
trong anh, tôi biết Nam vẫn có cái lối hỏi đột ngột như thế.
Cái lối hỏi từ một con đường tắt đi ra bắt người ta trả lời.
Chưa đoán được ư Nam, tôi trả lời vội:
“Không, không. Lạ cái ǵ?”
Đáng lẽ ra, tôi phải trả lời có. Tôi bỏ hẳn tảng trời xanh
đầu núi và đường vai gầy của anh, để chỉ nghĩ đến anh. Phải
rồi, Nam đă làm cho tôi lạ lùng thật. Khó hiểu nữa. Nhưng mà
tôi đă định ở lại với anh đến sáng mai. Tất cả những cái ǵ
tôi định nói, chúng tôi sẽ nói với nhau trong suốt đêm nay.
Tôi nh́n lại tảng trời xanh vẫn đang đi lên, đang mở rộng.
Xanh trong gần thành vàng nắng. Bên kia núi, chắc có nắng. Ở
khắp nơi, chắc vẫn có nắng. Chỉ ở riêng miền này, nắng chưa
dâng thôi. Hai chúng tôi lại im lặng bước đi. Nhưng một cái
ǵ nặng nề ban năy h́nh như vừa được nhấc khỏi. Có lẽ bởi
một tiếng nói, một ḥn sỏi lăn động dưới chân chúng tôi. Lại
có lẽ v́ một tảng trời xanh đă nằm trong nhỡn giới của
người. Trên một ư nghĩ u uất trong tôi, h́nh như có ít nắng
vừa dâng lên.
Tôi nh́n xuống một con đường cứ nhỏ dần, hỏi với lên:
“Này, đến chưa? Sao “ngh́n dặm” thế hả?”
Nam quay lại, chỉ tay xuống một khoảng thấp phía dưới:
“Kia ḱa.
Tôi nh́n theo ngón tay anh trỏ xuống một căn nhà bé nhỏ,
tường mái cũ kỹ, kiến trúc cái lối nhà để chứa đựng đồ đạc
hơn là để ở. Màu ngói nâu thẫm, rêu xanh chảy thành từng
ḍng từ những đầu mái long lở xuống những chân tường. Chân
tường lấp dưới cỏ núi. Cái cảm giác đầu tiên của tôi vẫn
kính mến bởi cái năng lực vô cùng phong phú của anh gửi vào
cuộc sống, là Nam không ở được nơi này. Con đường cỏ dại và
những mái tường rêu phong kia không thể là những khung đời
đen tối của anh.
Tôi nh́n xuống căn nhà nhỏ bé. Bốn cửa sổ đóng cả bốn, khép
kín một vẻ bưng bít. Tôi nh́n Nam. Anh đứng bên tôi, cũng
đang lặng lẽ nh́n xuống. Sự yên lặng của anh là một tiếng
nói. Tiếng nói này nói lên cho một thái độ: Sự chịu đựng.
Nam thua rồi. Nh́n chỗ ở của anh, tôi cũng biết là Nam thua
rồi. Buồn hơn, anh đă chịu thua. Không biết từ đâu, một rung
động buồn rầu thấm thía từ từ nổi dậy trong tôi. Nó buốt
lạnh như hơi rừng. Tôi vừa thấy lạnh lẽo vừa thấy mệt mỏi,
như một người đi đường đặt hết niềm tin vào chỗ đến, và đến,
chỉ thấy đổ vỡ, chỉ thấy tàn hoang. Trong một thoáng, tôi
muốn quay trở về. Tôi sẽ bỏ Nam đứng lại một ḿnh với núi
rừng của anh. Tôi sẽ yên lặng đi trở lại con đường bé nhỏ,
ra ngoài đường cái, leo lên một chiếc xe đ̣ cũ kỹ, dời bỏ cả
một vùng cao nguyên lúc nào cũng nằm ngủ bên cạnh những bờ
vực ch́m đắm, để đi xuống những vùng phường phố chan hoà sự
sống dưới kia, ở những vùng xây dựng đang mùa, kiến thiết
không ngừng nghỉ. Tôi muốn bỏ đi. Tôi muốn xuống núi. Để
được sống. Được cho đi, được nhận lại. Được vui và được tin
yêu. Được đóng góp cái phần bé mọn của ḿnh cho tập thể.
Ở đây, tôi không thấy ǵ, thật không thấy ǵ. Nếu thật ra sự
sống rất mênh mông cũng có những biên thuỳ, th́ nơi này đă ở
ngoài biên thuỳ sự sống. Nam đă đứng thật xa, ngoài biên
thuỳ. Một con đường nhỏ. Những lớp núi rừng trùng điệp.
Những chiều mưa dầm dề. Cỏ hoang. Ở đâu cũng cỏ hoang. Tôi
bắt đầu phải công nhận một cách bực bội rằng ngoại cảnh nếu
không tác động, cũng ảnh hưởng mănh liệt đến đời sống. Nó tô
thêm sắc màu cho những tâm trạng, những sự kiện chưa đẫm
nét. Tôi nh́n những đường rêu chảy trên mái cũ, nghĩ rằng
núi rừng hoang vu nơi này cũng là những lớp rêu xanh. Chúng
đang chảy xuống đời Nam. Một cánh cửa đóng kín. Những lớp
rêu tường. Sự cách biệt ghê gớm. Nam chỉ thiếu biến thành
một tượng đá. Nhưng chưa, th́ cũng đă gần rồi.
Tôi nghĩ thế, và tôi đă muốn trở về. Tôi tưởng rằng núi rừng
hoang vắng cách biệt chưa phải là chỗ ở của Nam. Tự nhiên
tôi nhớ đến những con đường đi trong một bệnh viện thành
phố. Những con đường lúc nào cũng như ngủ thiếp dưới mái lá
xanh. Bệnh viện nào cũng là một thứ thế giới cách biệt. Đời
sống đứng lại bên ngoài. Nó đứng lại dưới những hàng cây,
vừa đọng lắng vừa sôi nổi, và bên trong, chỉ là một thứ thời
gian lâu dài yên lặng. Bóng nắng bóng lá mệt mỏi. Tường vôi
trắng toát. Những người bệnh xanh yếu. Ở đây, rừng núi cũng
phảng phất một thứ không khí bệnh viện. Căn nhà rêu phong
dưới chân núi kia cũng là một thứ an dưỡng đường cho một con
người nhọc mỏi giữa lưng chừng cuộc sống.
Tôi không muốn đến những an dưỡng đường. Tôi muốn trở về.
Nhưng với niềm bất măn vẫn ngấm ngầm trong tôi. Tôi muốn
được hiểu Nam hơn. Sự xoay chiều đột ngột của anh.
Cuối cùng, tôi nhất định ở lại.
Nam nhường tôi xuống trước. Qua những bực đất đào ngập vào
sườn đồi, đến một khoảng sân nhỏ, không trồng trọt ǵ. Rừng
gần nhà đổ lá xuống ngập ngụa. Tiếng nước rỏ xuống tí tách.
Nam gơ nhẹ tay vào cánh cửa đóng kín.
Có tiếng động ở bên trong. Những bước chân lại gần. Cửa hé
mở. Tôi nh́n thấy chị Nam qua màn mưa loáng thoáng. Dưới mái
tóc loà xoà, khuôn mặt chị hiền hậu nh́n tôi. Một thoáng
ngạc nhiên ánh lên trong đôi mắt to đen.
Nam điềm đạm bảo vợ:
“Anh Thảo lên chơi với chúng ḿnh. Em mở cửa cho sáng.
Cửa mở rồi mà gian pḥng cũng không sáng được bao nhiêu. Chỉ
mới bớt tối đi thôi. Phảng phất trong cái nhờ nhờ một thứ
không khí u uất. Cuộc sống ở đây chứa đựng quá nhiều bóng
tối rồi. Gian pḥng không sáng nổi được nữa. Tôi nh́n chung
quanh. Bàn ghế, đồ đạc đứng lặng lẽ từng khối tĩnh vật ch́m
lặng. Tôi nghĩ đến thứ ánh sáng của một niềm tin sáng chói,
chưa được anh Nam đốt cháy ở nơi này. Ánh sáng của một nụ
cười. Của một đôi mắt. Phút giây này, tôi đă thiết tha mong
mỏi sự cháy đỏ của những ḍng ánh sáng ấy, dù chỉ một chút
ít thôi. Th́ ở đây sẽ đỡ tối hơn. Những sự vật bé mọn nhất ở
nơi này h́nh như đều phủ ngập dưới những tầng lớp băng
tuyết, những trận mưa núi; những đợt sương rừng, ánh sáng có
bùng được lên không?
Tôi nh́n ra ngoài. Rừng núi ngớt mưa đang đi dần vào hoàng
hôn. Tối xám lan đi từng ngọn đồi. Hết ngọn này đến ngọn
khác. Từng gốc cây. Hết gốc này đến đến gốc khác. Cái tảng
trời xanh phía đầu núi của tôi ban năy cũng đă nhoà đi rồi.
Sao chưa kịp lên, đêm đă sâu thăm thẳm. Rồi tất cả những
ngọn đồi, những gốc cây đều không nh́n thấy nữa. Cửa mở
thành một khung đen. Mắt tôi tối lại. Nh́n Nam, bóng tối
cũng ngập đầy trong mắt anh.
Sau bữa cơm, chị Nam pha cho chúng tôi hai tách cà phê.
Nhớ lại một h́nh ảnh đẹp cũ, tôi lên tiếng nhắc chị nhớ pha
cho thật đặc. Chị Nam quay lại mỉm cười:
“Tôi nhớ rồi, anh chẳng phải dặn. Lần nào gặp nhau mà các
anh không uống cà phê đặc, rồi thức suốt đêm. Cà phê của các
anh không phải là cà phê nữa. Thuốc bắc th́ đúng hơn”.
Tôi mỉm cười nh́n Nam. Chúng tôi cùng sống lại những đêm cũ.
Kỷ niệm. Gương mặt Nam đă tươi hơn một chút.
Chị Nam đặt hai ly cà phê vào cái khay nhỏ, lấy hộp thuốc lá
thơm, bưng tất cả đặt trên cái bàn thấp gần cửa sổ, đoạn chị
kín đáo bỏ xuống nhà dưới. Tôi nh́n theo chị Nam, yêu mến
cái vẻ kín đáo của chị lúc đó. Tôi vừa bắt gặp lại những nếp
sống đặc biệt, tế nhị của người đàn bà Hà Nội. Một dáng đi.
Một cách ăn nói. Cái lối pha một tách cà phê đặc sánh. Chị
vẫn giữ ǵn được nguyên vẹn cái duyên dáng ngày cũ, lúc chị
c̣n là một người thiếu nữ ở Hàng Đào. Chị không đổi thay. Mà
chỉ có Nam đổi thay thôi.
Chị Nam bỏ xuống nhà dưới v́ chị biết Nam và tôi có những
câu chuyện cần phải nói với nhau đêm nay. Đó cũng là một
thói quen đă có giữa Nam với tôi từ rất lâu. Đêm nay, tôi đă
muốn sống lại với Nam những đêm chí t́nh cũ. Một tách cà phê
đặc. Một hộp thuốc lá. Để mà bàn định với nhau về những dự
định của đời sống. Nhưng đêm nay tôi thức với Nam để làm ǵ?
Anh c̣n có những dự định ǵ về đời sống? Tôi nh́n sang anh.
Bên kia bàn. Nam chống tay lên cằm, nh́n xuống. Giây phút
yên lặng vời vợi khắc khoải. Điếu thuốc lá cháy trên tay
anh, ḍng khói vật vờ khuất khúc. Khói thuốc ngừng lại trên
nếp tóc rồi bồng bềnh. Những đường gân hai bên hàm nổi lên
một thoáng cử động ch́m lặn. U uất. Tôi nghĩ thầm: “Chỉ thấy
mưa phùn và mây xám thôi. Chưa thấy nắng. Cũng chưa thấy
trời xanh”.
Một lát Nam ngẩng lên hỏi tôi:
“Bạn hữu ở dưới ấy ra sao?”
“Cũng lúng túng cả”.
Tôi ngẫm nghĩ rồi nói tiếp:
“Nhưng họ đang cố gắng. Rồi sẽ được tốt đẹp như cũ”.
Nam đáp thờ ơ:
“Nhất định rồi”.
Con mắt anh nh́n tôi rồi nh́n ra ngoài. Cái nh́n hết sức thờ
ơ gửi vào đêm rừng mênh mông. Tôi biết Nam nói mà không nghĩ
ǵ. Những ư nghĩ mất nhiệt thành mất tin tưởng không c̣n là
ư nghĩ nữa. Tôi đă muốn hét lên với anh rằng nhất định rồi,
nhất định rồi cuộc sống sẽ được tốt đẹp, nhất định như thế
bởi v́ những người bạn anh ở dưới kia đang lăn ḿnh vào cuộc
chiến đấu để xây dựng cho một ngày trở về, với tất cả niềm
tin tưởng sắt đá của họ, với tất cả cái năng lực sáng tạo
của họ. Và chỉ anh là anh đă mất niềm tin thôi.
Nghĩ thế nào tôi lại thôi. Tôi nghĩ rằng Nam đang là một
người bệnh. Cho dẫu rằng anh chưa có quyền được vào bất cứ
một bệnh viện nào. Nhưng im lặng, tôi lại bất măn. Bất măn
nhiều nhất về cái thái độ của anh. Con người anh hôm nay đem
đối chiếu với dĩ văng, sau mâu thuẫn lại đậm đà đến thế. Tôi
nhớ đến dĩ văng. Một thứ dĩ văng gần gụi của anh, của chúng
tôi:
Từ đầu mùa thu 1950 đến những ngày trước hiệp định chia đôi
đất nước. Nam ở hậu phương về Hà Nội. Dời bỏ hàng ngũ của
những con người đă ḱm hăm, đă huỷ diệt cái năng lực sáng
tạo của anh, về tới Hà Nội anh bắt tay ngay vào việc. Tôi đă
sống gần Nam những ngày tháng sôi nổi mănh liệt ấy, để mà đo
lường được thế nào là cái năng lực của con người sống vượt
bực quyết tâm xây dựng lại cơ sở. Từ hai bàn tay trắng Nam
bắt đầu. Và cuộc sống của anh cứ thế chuyển đi, như một h́nh
ảnh mùa màng nườm nượp sinh thành trên tàn đổ. Anh sống
không ngừng không nghỉ. Dạo ấy, Nam vẫn luôn luôn bảo tôi:
“Thời gian gấp rút ghê lắm, Thảo ạ! Phải xây dựng được ngay
một cái ǵ cho chúng ta.”
Câu nói sôi nổi này, Nam đă đem gắn liền nó với hành động.
Cứ theo anh thôi, tôi cũng thấy mệt đến đứt hơi. Lối sống
của anh thu thế kỷ vào một năm, thu ngh́n năm vào một phút.
Anh làm bằng mười, bằng trăm người. Công cuộc xây dựng cơ sở
của anh ngày lại ngày thể hiện trong một nhịp điệu đều đặn.
Trước hết, Nam nhảy vào nghề thầu khoán. Đêm ngày anh lặn
lội với lũ vật liệu, với công nhân, với mưa nắng ngoài công
trường. Chỉ trong một năm anh đă xây cất được ba căn nhà mới
nữa ở trung tâm thành phố. Ngân khoản gửi ngân hàng của anh
lên tới hàng triệu đồng.
Hết một năm anh vụt đổi nghề. Những đô thị tàn phá đă được
xây dựng lại gần hết trong thời gian này. Nghề thầu khoán
không thích hợp nữa.
Đêm hôm ngồi uống cà phê với anh ở bàn giấy, kết toán lại
công việc để sửa soạn dự định mới, Nam cười bảo tôi:
“Thế là chúng ḿnh đă kết thúc xong chương tŕnh đầu tiên.
Bây giờ đến chương tŕnh thứ hai. Tôi hẹn với anh ba năm.
Sau đó, sẽ là cái chương tŕnh cuối cùng của tất cả chúng
ta”.
Cái chương tŕnh cuối cùng của chúng tôi là một sự tổ chức
thật đầy đủ, thật chu đáo cho đời sống vật chất và tinh thần
của một số người gắn bó với nhau qua một thứ duyên văn đậm
đà nhất, cùng theo đuổi một lư tưởng trên lănh vực văn nghệ.
Chúng tôi thật đông thật tin tưởng, nhưng chúng tôi sống lẻ
loi và thiếu thốn tất cả mọi phương tiện. Sống những ngày
lênh đênh mưa nắng ở hậu phương cộng sản, để chịu đựng đến ê
chề sự chà đạp tin tưởng, sự ḱm hăm tinh thần, chúng tôi kẻ
trước người sau đă dời bỏ thiên đường cộng sản trở về Hà
Nội.
Cuộc chiến tranh đau khổ lâu dài dạo đó đă là nguyên nhân
phát sinh một tâm trạng văn nghệ thật đen tối. Mặt trận văn
nghệ mở ra từng giai đoạn gay go. Kẻ thù mọc lên trùng điệp.
Sa đoạ, đổ vỡ ghê gớm. Để xây dựng lại tất cả, phải phá huỷ
tất cả.
Hướng đi mới sáng chói trong nội tâm từng con người đă sống
nhiều thời gian đau đớn của thí nghiệm, của nhận đường. Ḷng
tin tưởng dư thừa. Nhưng phương tiện ở đâu? Chúng tôi thiếu
thốn tất cả. Một nhà xuất bản. Một nhà in. Một nơi lui tới
cho những buổi sinh hoạt tập thể. Cả đến những nhu cầu tối
thiểu hàng ngày. Một vài anh bạn đau tim đau phổi trầm
trọng. Một vài người sốt rét kinh niên, thứ rét rừng ghê gớm
mang về từ những biên giới âm u miền ngoài. Đôi khi lại một
vài anh trút hơi thở cuối cùng trong một bệnh viện làm phúc.
Nam gặp lại tất cả chúng tôi vào thời kỳ đó.
Anh biết đến cảnh ngộ của chúng tôi. Nhiều đêm thức với anh,
tâm sự với anh về những cảnh huống đau buồn của bọn người
cầm bút nghiêng ngả điêu đứng v́ những tác động vật chất,
tôi đă cởi mở đến cái mực không giấu giếm ǵ anh nữa.
Anh suy nghĩ, rồi anh bảo tôi:
“Chúng ḿnh phải chấm dứt ngay cái t́nh trạng này. Các anh
không thể chết dần chết ṃn trong những bệnh viện làm phúc
được. Tôi sẽ thay Chúa Giêsu làm một cái ǵ cho chúng ta”.
Sự quyết định của Nam, giữa một thời đại xa hoa ích kỷ,
không làm tôi ngạc nhiên. Một phần v́ Nam là con người của
những quyết định mau lẹ. Một phần v́ tôi biết Nam vẫn có
ḷng với văn nghệ từ lâu. Anh mến chúng tôi v́ anh biết
chúng tôi đau khổ nhiều. V́ anh biết chúng tôi có niềm tin,
nhưng không bao giờ tạo nổi được những điều kiện vật chất
cần yếu.
Nam bàn với chúng tôi như thế này:
“Tôi dự tính dựng một nhà in, một nhà xuất bản, có đủ hết
máy móc vật liệu để có thể ấn hành được tất cả những tác
phẩm hữu ích. Sẽ có một câu lạc bộ văn nghệ cho các anh nữa,
với chỗ ăn chỗ ngủ chu đáo. Các anh phải được nghỉ ngơi,
được tĩnh dưỡng như tất cả mọi người. Các anh hăy giữ vững
niềm tin. Tôi sẽ thu xếp đầy đủ phương tiện cho các anh”.
Nam hành động sát thực tế. Anh biến dự định thành những con
số. Những con tính kỹ càng cho từng ngân khoản bé nhỏ một.
Anh kết toán:
“Phải có từ bốn đến năm triệu đồng”.
Anh cười nói đùa:
“V́ các anh đông lắm. Nhà văn lại sống dai nữa”.
Cuộc dự tính có tính chất vĩnh viễn được đặt trên một quy mô
rộng lớn chưa từng thấy. Dự định này thành được do sự nhiệt
tâm của một người, th́ cả tập thể có thể vững ḷng mà phục
vụ bằng ng̣i bút, bằng tư tưởng.
Nam bắt tay thực hiện chương tŕnh này vào khoảng đầu mùa
xuân 1954. Anh bán phăng ba căn nhà, đem số tiền mua một
biệt thự diện tích gần ba mẫu ở ngoại ô thành phố. Sửa chữa
lại, ba tháng sau th́ xong. C̣n hai căn nữa, anh để một làm
nhà in, một làm toà soạn. Tiền gửi ngân hàng, anh rút ra
hết, gửi tất cả sang Âu châu mua máy in.
Công cuộc tiến hành tuần tự tốt đẹp.
Nhưng có một điều mà Nam không tính đến: Sự biến chuyển của
thời cuộc. Cho đến bây giờ, những phút ngồi ôn lại đến cái
dự định cao đẹp kia đă đổ vỡ không phải v́ chúng tôi, càng
không phải v́ Nam, tôi vẫn không hiểu tại sao Nam không chịu
lưu tâm đến những yếu tố ngoại cảnh. Vậy mà ngoại cảnh trong
không gian Bắc Việt và trong thời gian 1954 lại như đập
thẳng vào mắt. Suy nghĩ nhiều rồi, tôi mới cảm thấy quư mến
anh, sự quư mến gửi đến một con người dám xây dựng những sự
kiện trường cửu ngay giữa mùa dông băo.
Được xây dựng là đủ, c̣n mặc kệ dông băo. Không tính đến
thành bại.
Dông băo đổ ập tới: Tháng sau, thất thủ Điện Biên Phủ. Tháng
Bảy, chúng nó kư kết với nhau hiệp định Genève. Miền Bắc rơi
vào tay cộng sản. Hà Nội sống những ngày vực thẳm. Cái
chương tŕnh của Nam, của chúng tôi đổ vỡ theo. Hà Nội sống
nốt 100 ngày tự do cuối cùng. Không may cho chúng tôi, lúc
đó Nam lại vắng mặt ở Hà Nội v́ một chuyến đi xa. Ở Hương
Cảng về tới nơi, Nam bỗng dưng đau nặng. Những chiếc máy in
lớn gửi về từ Âu châu nằm ngổn ngang dưới nhà in không có
người ở. Đến khi Nam ra khỏi nhà thương, th́ cái thời hạn
100 ngày cũng gần chấm dứt. Anh không kịp thu xếp ǵ cả. Mà
h́nh như anh cũng chẳng muốn thu xếp nữa. Con người của
những dự định lớn lao, có tất cả ngày hôm trước, mất tất cả
ngày hôm sau. Nam đi khỏi Hà Nội với hai bàn tay trắng. Như
chúng tôi, như phần lớn những người Hà Nội.
Nam đưa vợ con xuống Hải Pḥng. Từ Hải Pḥng vào Nam, anh đi
thẳng lên vùng Cao nguyên, trốn lánh bạn hữu, trốn lánh cuộc
sống, trốn lánh tất cả.
Một năm rồi.
Tôi mới lại được gặp anh ở đây.
Cuộc chiến đấu cho tự do cũng bắt đầu vừa chẵn một năm.
Đêm núi rừng mịt mùng bên ngoài. Tách cà phê đă nguội lạnh
từ lâu. Những giây phút yên lặng, thăm thẳm. Nam đưa tay gạt
một tàn thuốc lả tả rụng xuống. Tôi nghĩ đến anh. Đến bọn
chúng tôi. Đến Hà Nội. Đến bọn cộng sản. Đến một ngày trở về
chưa tới. Đến một cuộc sống mới đă khởi đầu. Chúng tôi đă
định khởi đầu cả rồi. Hàng triệu người đă khởi đầu ở dưới
kia, trên những miền đất nước bàng bạc sắc thái tự do. Cuộc
chiến đấu mới sôi nổi, gấp rút, người ta không có quyền đ̣i
hỏi phương tiện, đợi chờ cơ hội. Ở khắp nơi, những con người
tự do đă hát lên. Đă đi thẳng vào xây dựng, đến thẳng với kẻ
thù. Trên những địa hạt văn nghệ, những cây bút tự do đă kết
tụ lại từng nhóm phục vụ chiến đấu. Giai đoạn sống c̣n này
nằm trong cái gấp rút, sôi nổi của hiện tại. Dĩ văng chết
thật rồi. Chúng ta đă bỏ lại dĩ văng cho kẻ thù ở bên kia.
Trước tương lai chói loà, người ta không có quyền được
thương tiếc quá khứ nữa.
Đêm hôm đó, tôi đă nói được với Nam về những sắc thái bay
múa của cơ man nào là cuộc sống đang khởi đầu ấy. Tôi muốn
nh́n thấy sự cháy đỏ trong anh một ngọn lửa tin. Nhưng mà
những sự kiện bé nhỏ nhất ở nơi này cũng đều ch́m ngập dưới
những tầng lớp băng tuyết, lửa có cháy lên được không?
Hăy nghe Nam thủ thỉ:
“Tôi không thiết tha ǵ nữa, Thảo à! Sống cho qua ngày thôi.
Nhiều lúc tôi muốn xoá bỏ hết, muốn xuống núi, để bắt tay
vào một cái ǵ với các anh. Nhưng cũng không nổi nữa đấy.
Tôi đă mất mát nhiều quá, tôi thua rồi. Hành động trong một
thời gian nghiêng ngả, con người phải vững lắm mới được. Tôi
nghĩ đến sự cố gắng của tôi ở Hà Nội trong 5 năm trời đằng
đẵng. Tôi sống 5 năm bằng cả một đời. Bây giờ trắng tay vẫn
hoàn trắng tay. Anh bảo tôi không thất vọng sao được”.
“Vậy mà hàng triệu người như chúng ta đă không thất vọng mà
c̣n tin tưởng ghê lắm”.
Nam cười buồn:
“Tôi chưa thấy điều ǵ làm tôi tin tưởng được. Mất mát nhiều
như tôi, tin tưởng lại khó lắm”.
Tôi không trả lời Nam. Tôi biết anh mất mát nhiều. Nhưng tôi
c̣n biết anh đă mất mát ở ngay đây một cái ǵ to lớn hơn tất
cả những mất mát của anh ngoài Hà Nội. Nam đă đánh mất niềm
tin. Rừng núi hoang vu buồn thảm ảnh hưởng sâu nặng thêm măi
vào cái tâm trạng tàn lụi này.
Tôi nghĩ thầm: Nếu anh xuống núi. Phải rồi. Nếu anh xuống
núi để đến những thành phố, những làng xóm, những trung tâm
định cư, những vùng bị cộng sản tàn phá, những miền mới tiếp
thu, để có những ấn tượng rực rỡ nhất về cuộc phục sinh của
đất nước, để tai nghe mắt thấy tại chỗ những lớp người đă
đau khổ, đă mất mát như anh, đang đặt những nền tảng đầu
tiên cho đời sống tự do.
Nếu Nam xuống núi để tiếp nhận những ḍng đời đang xuôi
chảy, đang dâng lên. Những con suối nhỏ đang sống những đời
đại dương. Những người đă bỏ hàng trăm nóc nhà đến vùng tự
do, sống tin yêu dưới một mái lều tạm trú. Th́ anh sẽ khám
phá được điều này: Chúng ta giầu có hơn bao giờ. V́ chúng ta
tự do. Và những vùng trời của chúng ta không chỉ là những
cơn mưa núi, những buổi chiều tối xám, u uất, mà c̣n là
những miền b́nh minh, những ngày chói nắng, những buổi đầu
mùa.
Tôi liền đề nghị với Nam:
“Từ ngày vào đây, chắc anh cũng chưa đi đến đâu. Anh thử đi
thăm các nơi một chuyến xem sao. Anh cần phải đi. Nằm măi ở
miền cao này, rồi anh biến thành trăng sao mất. Tôi tin rằng
cuộc sống của dân tộc hôm nay ở miền tự do sẽ làm anh thay
đổi thái độ. Không ít th́ nhiều, nhưng thế nào cũng thay
đổi”.
Nam yên lặng không nói ǵ.
Đêm hôm đó, chúng tôi thức với nhau đến sáng.
Tôi từ giă vợ chồng anh buổi sớm hôm sau. Mưa núi đă tạnh
hẳn. Trên lối đi nhỏ, sương trắng bốc lên nghi ngút. Có
tiếng chim rừng hót ở đầu nhà. Vợ chồng anh đưa tôi ra ngoài
đường cái. Tôi bỏ anh lại với rừng núi của anh. Niềm tin
tưởng cuối cùng trong tôi là một ngày nào sẽ có một chuyến
đi vào sâu giữa ḷng đất nước, sẽ gửi trả Nam cho chúng tôi…
Lần gặp Nam ở cao nguyên đến nay đă được một tháng.
Bỗng một hôm, tôi nhận được thư anh. Tôi mừng vô tả. Trong
thư, Nam báo tin cho tôi, ít ngày sau hôm tôi về, vợ chồng
anh đă bắt đầu một chuyến đi trên khắp các vùng bên này vĩ
tuyến 17. Anh đă đến các vùng mới tiếp thu. Anh đă đi thăm
những vùng bị tàn phá nhất. Anh đă đến các trung tâm định
cư. Anh đă gặp những bạn hữu cũ. Và anh đă được biết thế nào
là cái lực lượng phục hồi vĩ đại của dân tộc, cùng là cái
năng lực của người tự do trong cuộc sống.
Đây là một đoạn ở cuối thư:
“Cứ nằm măi ở những miền rừng núi hẻo lánh, nằm măi trong
một thứ thạch động cách biệt, người ta có thể quên cả cuộc
sống, quên cả chính ḿnh nữa. Thảo ạ! Tôi đă sống một năm
thương nhớ dĩ văng, đau xót với những mất mát cũ, tôi không
sống được ǵ cả. Nguy quá. Tôi vừa đi thăm nhiều nơi về. Đâu
đâu, tôi cũng gặp những con người bừng bừng tin tưởng, và
hăm hở xây dựng. Trong tôi, ngọn lửa tin mà tôi tưởng nguội
lạnh hẳn, những người bạn đường hôm nay đă đốt nó cháy lên.
Tôi muốn sống. Tôi muốn hành động. Tôi không thể tưởng tượng
được rằng những lớp người đă mất mát đă đau khổ như chúng
ta, hơn chúng ta, lại có thể sống mănh liệt được như thế.
Nhưng sự thật như thế. Tôi sẽ bỏ rừng núi. Tôi sẽ xuống đồng
bằng đây. Hẹn gặp tất cả các anh. Chưa có dự định ǵ, nhưng
hành động đă. Mà lần này th́ chắc không thể nào tan vỡ được
nữa…”.
Bức thư của Nam chưa nói hết được với tôi về sự chuyển hướng
lớn lao anh. Nhưng tôi biết chắc chắn được điều này, Nam đă
trở lại đời sống. Nam đă trở về với chúng tôi rồi. Nam đă ra
khỏi bệnh viện, ra khỏi dĩ văng rồi. Nghĩ đến tập thể đông
đảo sẽ có thêm anh, tôi vui đến cái độ có thể ḥ hét toang
oang lên. Bọn cộng sản có thể chiếm đất đai của chúng ta,
nhưng chúng không thể cướp được con người của chúng ta.
Chúng có thể đánh ngă chúng ta trong một phút, nhưng rồi
chúng ta lại vùng dậy. Sự vùng dậy của Nam là một trong muôn
triệu.
Tôi c̣n biết chắc chắn được điều này nữa:
Cuộc sống của dân tộc hôm nay có một sức tác động mănh liệt
mà kẻ thù đă nhầm và chính chúng cũng không ngờ tới. Như một
con bệnh, một ngày đến những miền đất nước tự do, cái không
khí lành khoẻ của tập thể đă giúp Nam sống lại. Nhiều người
như Nam nữa. Đau khổ mất mát nhiều nhưng vẫn tin tưởng thắm
thiết. Vẫn đấu tranh mănh liệt.
Tôi gập thư lại. Tôi nghĩ đến Nam, những người như Nam, thức
dậy trong những lớp chiếu chăn dĩ văng ẩm mục, đang tấp nập
xuống núi. Bỏ những ngọn núi cô lẻ, những thạch động ớn
lạnh, họ đang xuống những miền đồng bằng của tự do. Họ sẽ
sống lại trong ḷng đất nước, trong ḷng tự do. Họ sẽ chiến
đấu để bảo vệ đất nước, bảo vệ tự do.
Tôi nhớ đến đường vai gầy của Nam. Đến vùng trời của Nam.
Nơi ấy chắc đă có nắng. Như ở đây.
Hết
|