Françoise Sagan, tiểu yêu nữ khả ái   
C’était l’été 1954. On entendait pour la première fois la voix sèche et rapide d’un charmant petit monstrequi allait faire scandale. La deuxième motié du XXème siècle commençait. Elle serait l’image de cette adolescente déchirée entre le remords et le culte du plaisir.

(Trang b́a sau “Bonjour Tristesse”, Éditiones Pocket, 2002)

Vào lúc 19 giờ 35 phút ngày 24 tháng 9 tại bệnh viện Honfleur, miền Nam nước Pháp, Françoise Sagan - một hiện tượng văn chương độc đáo của Pháp - đă trút hơi thở cuối cùng, thọ 69 tuổi, v́ bị máu

nghẹt ở phổi. Denis - đứa con trai duy nhất có với người chồng thứ hai Robert James Westhoff - và Marie-Therese Le Breton - quản gia, người đă từng nuôi nấng Sagan - ở bên bà vào những giây phút cuối cùng. “Sagan nói với tôi ‘Tôi không muốn chết’ và rồi bà ấy chết trong tay tôi, đôi mắt mở lớn...”, bà quản gia kể lại.  

Không mấy ai ngạc nhiên về cái chết của Sagan v́ sức khỏe của bà đă suy yếu nhiều trong những năm vừa qua. Nhưng đối với công chúng Pháp, cái chết đó vẫn tạo nên một cú “sốc”. Từ lâu, bà không chỉ là “vật tổ” (totem) của một thời đại, một thế hệ mà là một nhà văn Pháp đương thời nổi tiếng nhất thế giới. Hơn 30 triệu ấn bản các tác phẩm của bà đă được bán ra. Nhiều luận án về bà và tác phẩm đă được viết tại nhiều đại học trên thế giới, nhất là tại Hoa Kỳ. Hầu hết trong số hơn 40 tác phẩm của bà (hay hoặc dở) đều được dịch ra tiếng Anh và nếu không nằm ở danh sách bestseller th́ cũng được tiêu thụ nhanh chóng. Học sinh Nga học tiếng Pháp bằng các tác phẩm của bà. Một số câu lạc bộ ở Nhật lấy tên Sagan, vân vân.

Cứ lướt qua phản ứng của nhiều giới chức Pháp cũng như báo chí là ta có thể h́nh dung ảnh hưởng của bà đối với công chúng Pháp như thế nào. Tổng thống Pháp Jacques Chirac bày tỏ nỗi thương tiếc và xúc động ngay sau khi nghe tin bà chết qua một bản tuyên bố trong đó, ông cho rằng “Bà chết đi, nước Pháp đă mất đi một trong những tác giả độc đáo nhất và nhạy cảm nhất, một khuôn mặt sáng giá trong sinh hoạt văn chương của chúng ta. Với sự sắc sảo, trí tuệ và tinh tế, Françoise Sagan đă thăm ḍ những nguyên động lực và những đam mê của tâm hồn con người” (...) Bà đă góp phần vào sự tiến bộ của vị trí người phụ nữ trong xă hội chúng ta”.

Thủ tướng Pháp Jean-Pierre Raffarin: “Françoise Sagan, đó là một nụ cười, sầu muộn, khó hiểu, xa cách nhưng mà vui”.

Bộ trưởng văn hóa Renaud Donnedieu de Vabres: “Chúng ta đă mất đi một nhân vật ngoại hạng, một nghệ sĩ đầy tài năng”.

Nghệ sĩ Pháp Laurent Terzieff: “Bà mất đi, mang theo màu sắc và sự hài hước của cả một kỷ nguyên”.

Nhiếp ảnh gia Jean-Marie Perier: “Bà là một Rolling Stone [1] trước khi thuật ngữ này được sáng tạo”

Báo chí Âu Châu thương tiếc bà qua nhiều hàng tít lớn lấy từ tựa đề những tác phẩm nổi tiếng nhất của Sagan, chẳng hạn tờ La Vanguardia ở Tây Ban Nha: “Bonsoir Françoise”; tờ Corriere della Sera ở Ư: “Françoise Sagan, adieu tristesse”.

Báo chí Pháp th́ khỏi nói. Paris Match: “Sagan, une inoubliable légèreté”. Le Figaro: “Sagan: charmant petit monstre sacré”. L’Express, Le Figaro cũng như Le Monde cho đi cả một loạt bài vinh danh con người và sự nghiệp của Sagan. Dưới tựa đề “Tristesse”, tờ Liberation nói Sagan, mà những h́nh ảnh thời tuổi trẻ tràn đầy các trang đầu báo Pháp, không bao giờ làm cái ǵ nửa chừng. “Đời bà y như một cơn gió xoáy... Rộng lượng, đầy cảm hứng, nhanh nhảu, nổi loạn, không thể phân loại, không thể bắt chước. Chúng ta yêu mến Sagan, ngay cả nếu chúng ta chưa hề đọc sách của bà hay không c̣n đọc sách của bà nữa. Sagan là một cái ǵ c̣n hơn cả chính Sagan, c̣n hơn là một hiện tượng viết văn: một nhà văn, một phụ nữ, một kỷ nguyên. Bà vội vă đi hết tốc lực xuyên suốt cuộc đời và tác phẩm của ḿnh, chẳng thèm quan tâm đến ḿnh”.

Tờ báo bán chạy nhất Pháp Ouest-France, lưu ư rằng mặc dầu rất nổi tiếng bà chẳng đoạt được một giải thưởng văn chương quan trọng nào của Pháp, nhưng “Mỗi một tác phẩm xuất bản của bà đều lôi kéo sự chú ư của báo chí và dư luận, ngay cả đôi khi tác phẩm đó được xem như nông cạn, hời hợt. Bà hầu như đă thành công gây cảm hứng tạo ra tính từ “saganesque”. Saganesque là ǵ? Là “nhớ nhà và buồn cười, hết sức tầm phào và rất rơ ràng. [2]

Tờ Le Parisien với tựa đề “Adieu Sagan, bonjour tristesse”: “Cuộc đời của bà thực sự là một trường thiên tiểu thuyết, được đánh dấu bởi những vinh quang và giàu có, rồi bởi những khó khăn và suy sụp. Một huyền thoại đă ra đi. Bà là (Brigitte) Bardot [3] của văn chương”

o0o

Françoise Sagan! Bonjour tristesse! Buồn ơi, chào mi!

Cái tên, cái tựa đề không chỉ là tên và tựa đề mà – với tôi - là biểu trưng cho cả một thời kỳ.

Đầu thập niên 1960, thế hệ chúng tôi – đặc biệt những người sống ở các thành phố lớn như Huế, Sài G̣n, Đà Nẵng, Đà Lạt... - vừa bước ra khỏi thế giới tuổi thơ trong một khoảng thời gian hiếm hoi đất nước sống trong thanh b́nh. Người đệ nhị, kẻ đệ nhất [4], người th́ vừa bước chân lên ngưỡng cửa đại học, chúng tôi được chứng kiến và sống trọn với nhiều chuyển biến đă để lại ảnh hưởng sâu đậm đến nền văn học nghệ thuật miền Nam và rồi là Hải Ngoại nhiều thập niên sau này. Về văn, từ những Hồm bướm mơ tiên, Đoạn tuyệt, Nửa chừng xuân... chúng tôi bước vào Bếp Lửa, Cũng đành, Chuyến tàu trên sông Hồng, Mái tóc bạch kim... Trong các lớp ban C cấp 3, thầy cô đă từng bước cho học sinh thuyết tŕnh những tác phẩm mới thay v́ chỉ những tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn. Tôi biết có giáo sư đă cho một học sinh đệ tam (lớp 9) thuyết tŕnh “Cũng đành” của Dương Nghiễm Mậu. Về báo, từ Phổ Thông, Thời Nay, Văn Hóa Ngày Nay, chúng tôi bước vào Sáng Tạo, Hiện Đại, Thế Kỷ Hai Mươi. Về tác giả, từ Nhất Linh, Khái Hưng, Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư..., chúng tôi hào hứng đến với Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Tô Thùy Yên, Dương Nghiễm Mậu, Mai Thảo. Về hội họa, chúng tôi tiếp cận với hội họa phương Tây qua một lớp họa sĩ trẻ tài năng và nhiệt t́nh qua “Hội hoạ sĩ trẻ” với những Đinh Cường, Trịnh Cung, Nguyễn Trung, Tôn Thất Văn, Hồ Thành Đức. Rồi nào là Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Trịnh Công Sơn và rất nhiều khuôn mặt mới toanh khác, thuộc đủ mọi ngành nghệ thuật.

Về văn học nước ngoài, tuy người Pháp đă ra đi, nhưng ảnh hưởng của văn hóa Pháp vẫn c̣n mạnh mẽ. Chúng tôi vẫn thích nói về Paris, về viện bảo tàng Louvre, về sông Seine, về khu Saint Germain des prés, về công viên Luxembourg – những nơi nào đó ở Paris mà chúng tôi chẳng hề đặt chân tới. Trước khi văn hóa Mỹ cùng với chiến tranh chế ngự không khí văn hóa và xă hội Việt Nam, chúng tôi đọc sách báo Pháp, nghe nhạc Pháp, xem phim Pháp, chuộng phong thái “parisienne”. Chúng tôi vẫn thường lui tới các pḥng thông tin văn hóa Pháp để đọc sách, muợn sách và theo học các lớp Pháp ngữ. Từ Alphonse Daudet, Victor Hugo, Lamartine, chúng tôi “đụng” Sartre, Camus, Jacques Prévert... Mốt hồi đó, là sau yên chiếc xe đạp hay trên tay, lúc nào cũng có một cuốn “Livre de poche” gọn, nhỏ (mà chữ nghĩa và tên tuổi rất “nặng kư”), nếu không La condition humaine, Huis-clos, Le mur...th́ cũng La nausée, Les mains sales, Le malentendu. Ấy, đọc Sartre, Camus, Malraux, xem phim Brigitte Bardot, và say sưa thưởng thức các giọng ca hàng đầu Pháp Sylvie Vartan, Johnny Hallyday, Françoise Hardy với những bài hát Pháp vừa mới sáng tác là “mốt” thời thượng của chúng tôi.

Đó cũng là thời xuất hiện các quán cà phê văn nghệ, nơi chúng tôi đàn đúm ngày đêm để đấu láo, tán róc. Dáng dấp anh nào anh nấy đă có cái ǵ lất khất, lừng khừng, bụi bụi. Khuôn mặt lúc nào cũng ra vẻ bất cần đời. Có tay, đầu đội mũ bê rê lệch, miệng ngậm tẩu, khoác áo pardessus, trông có vẻ Tây, thầm hănh diện với mấy ngón tay cháy vàng khói thuốc. Những “cuộc” cà phê thâu đêm suốt sáng đêm. Những “trận” rượu ngất ngưởng. Chữ nghĩa nghe mới toanh: hư vô, hiện sinh, mệt nhoài, nổi loạn, thái độ, dấn thân, phi lư...

Françoise Sagan – và Bonjour tristesse - xuất hiện trong không khí đó. Thời đó, sau khi người Pháp ra đi, trừ những gia đ́nh giàu có cho con theo học các trường Tây, c̣n hầu hết chúng tôi đều học chương tŕnh Việt. Pháp văn (cũng như Anh Văn) trở thành ngoại ngữ, trung b́nh chỉ có 4 giờ/tuần. Bởi thế, những tác phẩm “nặng kư” của Sartre, hay Camus, hay Malraux không phải là dễ đọc đối với chúng tôi. May nhờ sách dịch và các tạp chí văn chương giới thiệu, nên ít nhiều cũng nắm được nội dung để có thể lần ṃ đọc và hiểu. Khác với những tác phẩm kể trên, Bonjour tristesse ngắn, ấn bản “Livre de poche” chỉ có 173 trang, chữ khổ trung b́nh. Văn viết gọn ghẽ, dễ hiểu. Tư tưởng tuy mới, nhưng không có ǵ cao siêu, khó hiểu, chỉ cần tŕnh độ Pháp văn trung b́nh là có thể đọc hết nguyên con trong một thời gian tương đối ngắn. Với Bonjour tristesse, một cánh cửa vốn đóng im ỉm bỗng nhiên mở toang trước mặt chúng tôi. Thế giới đột nhiên mênh mông hẳn ra. Cuộc sống bỗng nhiên trở thành lạ mặt. Thành phố, người thân, người yêu, bạn bè, trường học, gia đ́nh... bỗng xuất hiện trong một dáng dấp hoàn toàn mới.

Nhà phê b́nh Đặng Tiến – trước chúng tôi chừng nửa thế hệ - ghi nhận: năm 1954, “miền Nam Việt Nam trở thành một thực thể chính trị độc lập, thật sự mở cửa đón nhận ảnh hưởng văn hóa Phương Tây. Sách báo phương Tây du nhập ồ ạt: sách tiếng Anh (của Usis), tiếng Đức (của viện Goethe) và nhất là sách tiếng Pháp nhập khẩu với giá rẻ nhờ có tài trợ (sách AC, Action Culturelle) cước phí rẻ, giá ân huệ, tràn ngập các hiệu sách Xuân Thu, Lê Phan và các nhà sách trên đường Lê Lợi. Tại Sài G̣n, 1954, người đọc tiếp nhận Bonjour tristesse cùng một lúc với Paris, mà giá rẻ hơn (tương đối với ngoại tệ). Và cùng một lúc với sách báo, quần chúng Việt Nam tiếp xúc với âm nhạc, điện ảnh Tây Phương. Bản thân tôi đă xem vở kịch Chateau en Suede (Lâu đài Thụy Điển), 1960, của Sagan tại Sài G̣n, cùng lúc với Paris, do Pháp Văn Đồng Minh Hội (Alliance Francaise) tổ chức” [5] .

Nguyễn Văn Lục, trong một bài viết công phu trên tạp chí Hợp Lưu [6] , liệt kê rất đầy đủ sách dịch trong ṿng 20 năm ở miền Nam, 1955-1975, cho biết người đầu tiên giới thiệu Sagan là giáo sư Nguyễn Nam Châu, sau đó là Cô Liêu (Vũ Đ́nh Lưu) với bài “Sứ mệnh văn chương của Françoise Sagan” (Bách Khoa/1958) và Hoàng Thái Linh (Nguyễn Văn Trung) với bài “Trường hợp Sagan hay vấn đề luân lư trong tiểu thuyết”. Về dịch thuật, Nguyễn Văn Lục ghi nhận có 4 tác phẩm của Sagan được dịch ra tiếng Việt, đó là: Bonjour tristesse (một do Nguyễn Vỹ và một do Lê Huy Oanh), Un certain sourire (do Nguyễn Minh Hoàng), Dans un mois, dans un an (do Bửu Ư) và Les merveilles nuages (do Đinh Bá Kha). Bonjour tristesse được Nguyễn Vỹ dịch là “Buồn ơi, chào mi”, c̣n Lê Huy Oanh dịch là “Buồn ơi, xin chào”, nhưng không hiểu sao cụm từ “Buồn ơi chào mi” lại được nhắc nhở nhiều hơn, có lẽ v́ nghe nó thuận tai chăng?

Trước khi đi xa hơn với cuộc đời và sự nghiệp của Sagan, ta hăy nói về Bonjour tristesse. Xin tóm tắt câu chuyện:

Cô gái tên là Cécile, 17 tuổi cùng cha, Raymond, trong độ 40 tuổi, góa vợ và bà Elsa, t́nh nhân của cha, đi nghỉ hè ở bờ biển Côte d’azur. Sau, cha cô mời thêm một người bạn cũ của mẹ cô là Anne cùng đến đó. Trên băi biển, cô quen một sinh viên, cũng đi nghỉ hè, tên là Cyril, và cùng nhau đi chơi, đi bơi, đi khiêu vũ. Hai người hôn nhau, làm t́nh với nhau. Anne là một người đàn bà cỡ tuổi 40, chăm sóc cô như một người mẹ và khá nghiêm khắc. Bà ta tỏ ra không ưa Cyril và muốn Cécile bỏ anh ta và học để thi lại cái bằng tú tài mà cô hỏng năm rồi. Điều này khiến Cécile vô cùng bực bội và đâm ra ghét Anne. Đă thế, sau một thời gian ngắn, cha cô yêu Anne, bỏ rơi Elsa và dự tính kết hôn cùng bà ta, khiến cô lại càng tức giận. Thế là cô cùng anh chàng t́nh nhân vừa quen sắp đặt một kế hoạch để ly gián hai người. Được sự đồng ư của Elsa (bà này cũng đang buồn v́ bị t́nh phụ), hai người dàn một cảnh yêu đương và để cho cha cô trông thấy. Ông giận dữ, tức tối v́ thấy thấy t́nh nhân của ḿnh lại bị một tay trai trẻ bằng tuổi con ḿnh chiếm đoạt, nên hối hận, quay về với Elsa. Anne bắt gặp hai người âu yếm, buồn t́nh bỏ đi, và bị tai nạn, chết. Mọi người hối hận, nhưng mọi sự đă rồi. Cha cô và cô trở về lại Paris, sống lại đời sống b́nh thường cũ. Nhưng cô gái trẻ bây giờ không c̣n vô tư như trước mà phát sinh ra một trạng thái t́nh cảm mới: nỗi buồn.

T́nh tiết câu chuyện nghe đă lạ. Văn vẻ càng lạ hơn. Xin ghi lại vài đoạn trích từ Bonjour tristesse, nguyên bản Pháp ngữ [7] (có tạm dịch ở phần ghi chú). Tác phẩm mở đầu như sau:

“Sur le sentiment inconnu dont l’ennui, la douceur m’obsèdent, j’hésite à apposer le nom, le beau nom grave de tristesse. C’est un sentiment si complet, si égoiste que j’en ai presque honte alors que la tristesse m’a toujours paru honorable. (...) Aujourd’hui, quelque chose se replie sur moi comme une soie, énervante et douce, et me sépare des autres. Cet été-là, j’avais dix-sept ans et j’étais parfaitement heureuse. Les “autres” étaient mon père et Elsa, sa maitresse” [8] (tr. 1)
.

o0o

Nụ hôn đầu đời:

“Il me tenait serrée contre lui, soulevée, la tête sur son épaule. En ce moment-là, je l’aimais. Dans la lumière du matin, il était aussi doré, aussi gentil, aussi doux que moi, il me protégeait. Quand sa bouche chercha la mienne, je me mis à trembler de plaisir comme lui et notre baiser fut sans remords et sans honte, seulement une profonde recherche, entrecoupée de murmures.” [9] (tr. 34)

Chữ nghĩa không có ǵ cầu kỳ, câu kéo gọn gàng và rất “văn phạm”, dễ tiếp cận. Hơi văn th́ nhẹ nhàng, nhưng nghe có ǵ mệt mỏi, chán chường, bất cần đời một cách đầy kiêu hănh.

Đoạn gay cấn nhất trong tác phẩm: cô gái Cécile 16 tuổi tự ư t́m đến người con trai 26 tuổi vừa quen. Cảnh làm t́nh được diễn tả ngắn gọn, cô đọng như sau:

“Il m’avait rattrapée par le bras et me retenait en riant. Je me retournai vers lui et le regardai; il devint pâle comme je devais l’être moi-même et lâcha mon poignet. Mais ce fut pour me reprendre aussitôt dans ses bras et m’entrainer. Je pensais confusément: cela devait arriver, cela devait arriver. Puis ce fut la ronde de l’amour: la peur qui donne la main au désir, la tendresse et la rage, et cette souffrance brutale que suivait, triomphant, le plaisir. J’eus la chance – et Cyril la douceur nécessaire – de le découvrir dès ce jour-là” [10] (tr. 114-115)

Hút thuốc lá, một phong thái rất Sagan. Đây là đoạn tả Cécile trở về nhà sau giây phút “ghê gớm” đó:

“Je pris une cigarette sur la table, frottai une allumette sur la boite. Elle s’éteignit. J’en allumai une seconde avec précaution car il n’y avait pas de vent et seule, ma main tremblait. Elle s’éteignit aussitôt contre ma cigarette. Je grognai et en pris une troisième. Et alors, je ne sais pourquoi, cette allumette prit pour moi une importance vitale” [11] (tr. 117)

Nhưng rồi cuối cùng, cô gái từ giă người t́nh đầu, dửng dưng, tỉnh bơ y như một chuyện thường ngày, không có ǵ quan trọng cả:

“Cyril fit un pas vers moi et posa sa main sur mon bras. Je le regardai: je ne l’avais jamais aimé. Je l’avais trouvé bon et attirant; j’avais aimé le plaisir qu’il me donnait; mais je n’avais pas besoin de lui. J’allais partir, quitter cette maison, ce garcon et cet été.” [12] (tr. 176)

Đơn giản và thẳng thắn và ṣng phẳng đến thế th́ thôi!

Cùng với Sáng Tạo, cùng với những Camus, Sartre, Françoise Sagan đă đem một luồng gió mới vào sinh hoạt văn học nghệ thuật miền Nam Việt Nam kể từ thập niên 1960. Đặc biệt, Sagan - trực tiếp hay gián tiếp - đă đưa đến sự có mặt của 5 nhà văn nữ thuộc loại độc đáo nhất thời đó là Nhă Ca, Trùng Dương, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyễn Thị Hoàng (tức Hoàng Đông Phương) và Túy Hồng với một văn phong mới mẻ, nội dung táo bạo, chưa hề có trước đó. Ṿng tay học tṛ chẳng hạn, mô tả mối t́nh giữa một cô giáo và đứa học tṛ, gây nên dư luận xôn xao một thời. Rồi là Lệ Hằng và đặc biệt Trần Thị Ngh., một hiện tượng văn chương độc đáo đầu thập niên 1970 [13] . Theo Nguyễn Văn Lục, th́ các nhà văn nữ vào thập niên 60 như Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng, Lệ Hằng, Nguyễn Thị Thụy Vũ “phảng phất không khí Sagan”. Ông đánh giá: “Cái cảm giác khi đọc các nhà văn này (trừ Nguyễn Thị Hoàng) là họ c̣n đi xa hơn các nhà văn nam giới và đi xa hơn cả Sagan trong những mô tả tính dục. Chẳng hạn Sagan tả những liên hệ tính dục một cách phơn phớt, không đào sâu, không đậm đặc, “không mặn”, không sống sượng như Túy Hồng hay Nguyễn Thị Thụy Vũ” (...) Lối văn của Sagan cụt, hụt hẫng, hững hờ, không màu mè, diêm dúa. Mục đích của Sagan không phải là mô tả những scènes t́nh dục cho bằng muốn nhắn gửi: cuộc đời chẳng có ǵ quan trọng, ngay như chuyện làm t́nh... Luân lư cũng vậy vậy, đạo đức vậy vậy. Cuộc đời trong một ngày, một tháng, một năm, có ǵ là lạ. Thản nhiên, vô cảm” [14] .

o0o

Sagan, tên thật là Françoise Quoirez, tục danh là Kiki, sinh vào ngày 21 tháng 6 năm 1935 ở Cajarc, một ngôi làng ở miền tây nam Pháp. Bà là người con thứ ba của Paul Quoirez, một thương gia giàu có. Khi bà lên 15, gia đ́nh dời về sống ở Paris. Bà mê đọc sách từ hồi c̣n nhỏ; 12 tuổi, viết truyện và làm thơ; 13 tuổi, đọc Nourritures terrestres của André Gide; 14 tuổi, đọc L’homme révolté của Albert Camus; 16 tuổi, đọc Marcel Proust, Rimbaud. Về học hành, bà theo học trường ḍng (couvent des Oiseaux) trước khi vào học Sorbonne. Hai năm ở Sorbonne, bà chẳng học hành ǵ nhiều, phần lớn thời gian bà dành cho đi chơi và uống cà phê và đọc truyện. Biết uống rượu vào năm 15 tuổi. Trong kỳ thi cuối năm, bà hỏng tú tài khiến gia đ́nh rất phiền muộn. Để xoa dịu nỗi buồn bực, bà cảm thấy phải “làm một cái ǵ”, bèn ngồi xuống và bắt đầu viết. Viết xong trong ṿng 32 ngày (có báo nói là 7 tuần), bà gửi ngay cho nhiều nhà xuất bản, trong đó có René Julliard. Julliard nhận ngay để xuất bản với một điều kiện duy nhất: phải có phép của cha mẹ, v́ “cô bé” Françoise chưa tới 21 tuổi. Bà vội vă về hỏi ư kiến cha. Ông đồng ư ngay nhưng không cho bà dùng tên gia đ́nh (họ) mà phải dùng bút hiệu. Dễ thôi! Bà lấy tác phẩm yêu thích nhất của ḿnh À la recherche du temps perdu của Marcel Proust, giở ra một trang, thấy đoạn tả quận công Sagan đi ngang trên chiếc xe ngựa, thế là chọn ngay tên Sagan. Và bắt đầu từ đó, Françoise Quoirez trở thành Françoise Sagan.

Mùa hè năm 1954 là một mùa hè buồn thảm đối với toàn thể nước Pháp. Quân đội Pháp sa lầy và cuối cùng thất bại nhục nhă tại Điện Biên Phủ. Cuộc chiến tranh Đông Dương kết thúc. Tuổi trẻ Pháp chán nản, tuyệt vọng và mất phương hướng. Cũng năm đó, về mặt xă hội, người ta ghi nhận hai biến cố quan trọng, diễn ra ở hai cực hoàn toàn đối nghịch theo kiểu người ta thường nói: “thiên thần” – “ác quỷ ». Về phía “thiên thần”, sự xuất hiện của linh mục Pierre mà những hoạt động của ông đă tượng trưng cho tinh thần bác ái ở mức độ cao nhất (Roland Barthes đă phân tích rất kỹ h́nh tượng này trong tác phẩm Mythologies, Paris 1957, phần nói về các huyền thoại hiện đại). Và về phía “ác quỷ”, th́ là sự xuất hiện của Sagan, một thiếu nữ nổi loạn, xé rào, vô luân. Tất nhiên, đó chỉ là một cách nói. Nhưng nh́n ở một khía cạnh khác,theo Etienne de Montety (Figaro Magazine), th́ nước Pháp mất Đông Dương lại được bù trừ lại bằng sự xuất hiện của Sagan, một nhà văn ngoại hạng. Bonjour tristesse - được ví von như một trái bom nổ chậm đặt tại ngưỡng cửa của Cộng ḥa văn chương Pháp - ra đời hai năm trước phim Et Dieu créa la femme của đạo diễn Roger Vadim với một khuôn mặt tài tử hoàn toàn mới của nước Pháp và của thế giới: cô đào sexy Brigitte Bardot. Được xem như h́nh tượng của giới trí thức thập niên 1950, trong không khí của một nước Pháp phục hồi sau chiến tranh - cùng với Bardot - Sagan đă thổi một luồng không khí mới mẻ, tươi tắn, đưa trào lưu nghệ thuật Pháp và toàn thế giới vào một bước chuyển biến đầy bất ngờ thích thú, tạo nên những chấn động tâm lư, văn chương và xă hội kéo dài nhiều thập niên về sau.

Triết lư của câu chuyện là: chẳng có ǵ là quan trọng. Một cô bé 17 tuổi ngủ với trai mà không hề yêu, lại không mang thai cũng không hề hối hận và chẳng bị trừng phạt. Nói một cách khác, người ta có thể tự do, không phải trả giá cho hành động của ḿnh, dù đó là một hành động vô luân. Françoise Mauriac, một trong những nhà văn được kính trọng nhất thời bấy giờ, trong một bài báo viết trên trang đầu của tờ Le Figaro ngay sau khi tác phẩm được phát hành, - không nhắc đến tên tác phẩm mà cũng không nêu tên tác giả - gọi tác giả là một “tiểu yêu khả ái” (charmant petit monstre), cụm từ về sau trở thành một biệt hiệu dành riêng cho Sagan mà tôi đă mượn tạm để đặt tựa đề cho bài viết này.

o0o

Năm sau, một bản dịch tiếng Anh được phát hành và lập tức nằm số 1 trên danh sách bestseller của tờ New York Times. Từ 3000 ấn bản (có báo nói là 5000) lần phát hành đầu tiên, vào đầu năm 1958, sách bán đạt con số kỷ lục là 810 ngàn ấn bản ở Pháp và hơn một triệu ấn bản ở Hoa Kỳ và được dịch ra 20 thứ tiếng. Lập tức, tác phẩm tạo nên một sự thành công lạ thường. Nó chiếm được giải “Prix des Critiques”, mang lại cho Sagan 500 ngàn bảng Anh và đồng thời bị Giáo hoàng lên án mạnh mẽ, khiến cho một linh mục Công giáo đă phải từ chối làm phép hôn phối trong lễ cưới lần đầu tiên của bà. Sau này, Sagan cho rằng đó là một “thành công đầy tai tiếng” (succès de scandale) khi lần đầu tiên được phát hành ở Pháp. Bà nói bà cũng không hiểu tại sao mà người ta lại có vẻ ồn ào, sôi động như thế về tác phẩm của bà, lúc đó. Ba thập niên sau, nhớ lại, bà hiểu ra rằng sự giận dữ xuất phát từ mối quan hệ giữa nhân vật nữ, Cécile, và anh bồ của cô ta. Người ta không thể chấp nhận được chuyện một cô gái 17 hoặc 18 tuổi lại làm t́nh với một đứa con trai trạc tuổi ḿnh mà chẳng hề bị trừng phạt ǵ cả. Đă thế, cô gái biết về chuyện t́nh ái lăng nhăng của cha ḿnh, lại c̣n thảo luận chuyện đó với cha, đề cập đến những đề tài lúc đó vẫn c̣n là điều cấm kỵ giữa cha mẹ và con cái. “Đối với đại đa số độc giả (nguyên văn: ba phần tư), tai tiếng của tác phẩm là do chỗ một nhân vật thiếu nữ trẻ lại ngủ với trai mà không có thai, lại chẳng cần cưới nhau. Riêng đối với tôi, tai tiếng của câu chuyện là một nhân vật lại có thể – do vô thức, do ích kỷ – đưa đến cái chết của một người khác”, Sagan nói.

Thành công bước đầu tạo động lực cho Sagan hăng hái cầm bút tiếp. Trung b́nh cứ hai năm bà cho ra đời một tác phẩm. Những tựa sách của Sagan chất đầy trong thư viện, trên các kệ sách gia đ́nh và nằm trong trí nhớ mọi người. Từ năm 1954 đến 1965, có thêm ba sáng tác mới đuợc nằm trên danh sách bestseller: Un certain sourire, Aimez-vous Brahms và La chamade. Cả ba cuốn đều được đóng thành phim và đều là những phim thành công rực rỡ. Thành công ở truyện, bà nhảy sang viết kịch và kịch bản phim và tỏ ra có tài viết những đoạn đối thoại thông minh, dí dỏm. Tuy nhiên, trừ hai vở kịch đầu tiên, Chateau en Suède (1960) và Les violons parfois (1962) gây được tiếng vang trong công chúng thưởng ngoạn, nhiều vở kịch khác ra đời những năm sau đó như La Robe mauve de Valentine (1963), Bonheur, Impair et passe (1964), Le cheval évanoui (1966) không mấy thành công. Có lẽ do vậy, với La garde du coeur, tiểu thuyết xuất bản năm 1968, hầu như bà trở lại viết truyện dài, chỉ thỉnh thoảng mới viết một vở kịch.

Nói chung, dù là kịch hay tiểu thuyết, đề tài của bà thường na ná nhau, đại loại mô tả cuộc sống của giai cấp trưởng giả nhàn rỗi, chán nản, hoài nghi, cô đơn với những nhân vật đàn ông, đàn bà luôn luôn đánh vật với số phận của ḿnh và những thanh thiếu niên buồn bă, hờn dỗi, phung phá, nổi loạn, thách thức đạo lư xă hội đương thời. Truyện thường xoay quanh những chuyện t́nh trái khoáy, qua đó, nói lên sự xung đột giữa hai thế hệ. Chẳng hạn như trong La garde du coeur (kịch, 1968) - lấy khung cảnh ở Hollywood - kể lại câu chuyện của một thiếu phụ trung niên, đảm nhiệm việc chăm sóc cho một thiếu niên đẹp trai rồi đâm ra có cảm t́nh với cậu ta, tạo nên t́nh cảm phân vân giữa một bên là người t́nh đồng trang lứa và cậu con trai hoang đàng đáng tuổi con ḿnh; hay trong Un Orage immobile (truyện, 1983) - lấy khung cảnh của một ngôi làng nhỏ - kể lại t́nh yêu say đắm của một phụ nữ góa chồng xinh đẹp say mê một anh chàng công chứng viên trẻ tuổi. Các nhân vật của bà thường là những người tuyệt vọng trong quan hệ cá nhân, t́m cách lấp khoảng trống thời gian bằng cách đi t́m những thú vui nhục cảm, đưa đến các hành vi vô luân. Nói chung, nội dung truyện cho thấy tính cách vô mục đích trong cuộc sống hàng ngày. Chúng đưa ra h́nh ảnh của một nước Pháp hiện đại, trong đó, trách nhiệm cá nhân chẳng có nghĩa lư ǵ so với lối sống theo mốt thời thượng, một nguyên tắc mà bà xác định theo đuổi cho đến cùng. Chúng làm rúng động tầng lớp bảo thủ và thường khiến các nhà phê b́nh văn chương nhăn mặt, nhưng lại được rất nhiều người - đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên – thích thú, ngưỡng mộ, góp phần tạo nên ảnh hưởng đáng kể đến nhiều nhà văn nữ đàn em sau này.

o0o

Theo Josyane Savigneau (Le monde 25/9/04), khác với nhiều nhà văn có tính “hiếu đại” (mégalomanie), thường mơ ước sáng tác được một tác phẩm lớn - với niềm tin rằng đó là một cái ǵ độc đáo có thể tồn tại măi măi, để lại cho hậu thế - có vẻ như trong thâm tâm, Sagan không thích thế hoặc không hy vọng ḿnh sẽ làm được như thế. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho tờ Le Monde” vào năm 1984, bà nói rơ: “Tôi mơ làm nhà văn khi tôi bắt đầu đọc sách. Chắc chắn điều đó không có ǵ khác thường. Sau khi hỏng tú tài, tôi chán nản. Lúc đó tôi học năm đầu ở trường Sorbonne. Tôi bắt đầu viết Bonjour tristesse trong quán rượu. Viết xong, tôi gởi đến những nhà xuất bản. Julliard nhận. Rồi là bài báo của Mauriac, rồi là “Giải Phê B́nh” (Prix des Critiques) và tất cả bắt đầu một thành công vĩ đại, có cái ǵ không cân xứng. Riêng tôi, tôi biết tôi thích những câu chuyện tầm thường của tôi. Tôi chẳng hổ thẹn ǵ, v́ văn chương không đến nỗi dở, mà tôi th́ làm việc đàng hoàng. Tôi lại biết đọc sách. Tôi đă đọc Proust, đă đọc Stendhal... Những con người như thế quả làm ḿnh không dám chường mặt ra”, bà nói.

Trả lời cho một cuộc phỏng vấn khác vào năm 2003 với Alain Louyot (tạp chí L’Express) về viết lách, bà nói: “Tôi có cảm tưởng là ḿnh vô cùng may mắn trong cuộc đời. Tôi có cái may mắn thích viết và có thể viết được. Tôi lại có điều kiện thuận tiện để viết v́ tôi vốn rất lười biếng. Tôi nhớ đă có lần tôi viết một câu chuyện t́nh trong chiếc Limousin trong khi đang đi du lịch ở xứ Népal (...) Khi tôi có đề tài ở trong đầu, tôi có thể viết liền một mạch 12 tiếng đồng hồ. Và khi viết xong, tôi cảm thấy buồn, cảm thấy như ḿnh trở nên mồ côi. Tôi chỉ có thể viết khi tôi hoàn toàn hạnh phúc”. Được hỏi về chuyện thành công trong cuộc đời, bà cho biết: “Tôi không cho rằng tôi đă thành công ở trong cuộc đời. Nhưng tôi đă thành công ở chỗ tôi làm cái mà tôi thích: vừa sống vừa viết”. Cũng theo bà, “Viết là cách duy nhất xác định tôi chính là tôi. Tôi luôn luôn có cảm tưởng là sẽ đi đến một cái ǵ bế tắc. Vừa được vừa thua. Vừa tuyệt vọng vừa phấn khích” (“Sagan et Nous”, Henri Haget, L’Express 27/9/04).

Phát biểu về trào lưu “Tân tiểu thuyết” do các nhà văn Marguerite Duras, Alain Robbe-Grillet, Michel Butor, Claude Simon, Phillipe Sollers, và Nathalie Sarraute chủ trương vào đầu thập niên 1960, bà nói: “Tôi không tin ở kỹ thuật, không tin ở chuyện người ta có thể làm mới tiểu thuyết. Chính ở nơi con người mà người ta đào xới (để sáng tác). Y như chuyện người tiều phu. Thân cây (ông ta muốn đốn) đủ lớn để ông ta khỏi phải mất th́ giờ để kiểm tra xem cái ŕu ra sao”, bà phát biểu (Henri Haget).

Bàn về giá trị văn chương các tác phẩm của Sagan, hầu như mọi người đều đồng ư rằng, trong số hơn 40 tác phẩm của ḿnh, Bonjour tristesse là tác phẩm thành công nhất và có giá trị nhất. Không kể văn hào Mauriac, th́ người đầu tiên ca ngợi Sagan là ông già hàn lâm viện Emile Henriot, người phụ trách mục sổ tay văn học hàng ngày cho tờ Le Monde. Theo Laurent Greilsamer (Le Monde, ngày 11/7/04, bài “Bonjour Sagan”), cuốn sách mỏng chưa tới 200 trang khổ nhỏ mà như muốn làm bỏng tay ông. Ông thả xuống rồi cầm lên, đọc đi rồi đọc lại. Ông gọi đó là “một kiệt tác nhỏ bé vô liêm sỉ và tàn bạo” (un petit chef-d’oeuvre de cynisme et cruauté). Tính cách vô luân của nó (immoralisme) khiến ông say sưa, đưa đến một so sánh đáng đồng tiền bát gạo: “Đó là tác phẩm của một cô bé mới có 18 tuổi, có lẽ là c̣n rất ngây thơ trong trắng, nhưng đầy tưởng tượng sáng tạo và trong chừng mức cho phép, ta có thể so sánh toàn bộ cái tác phẩm đầu tay lạ thường này với một Choderlos de Laclos [1] hung bạo trong Liaisons dangereuses, với cái ngây thơ cay độc trong Hauts de Hurlevent (Đỉnh gió hú) của Emily Bronte và với ngọn lửa băng giá trong Diable au corps của Radiguet”. Và ông kết luận “Tất cả trở nên nhạt nhẽo sau một tác phẩm như thế” [2]

o0o

Nhà văn nổi tiếng Hoa Kỳ John Updike, viết trong tờ The New Yorker 20 năm sau khi Bonjour tristesse xuất hiện, ca ngợi tác phẩm là “sôi động như biển cả” (sparkling sea), “hẻo lánh như rừng hoang” (secluding woods), “nhanh nhảu tự nhiên” (animal quickness), cốt truyện th́ rất hiệu quả (academically efficient), các nhân vật nam, nữ được xây dựng một cách hoàn hảo. Theo ông th́ tác phẩm được viết bởi niềm tin hồn nhiên của tác giả trẻ vào tính chất khêu gợi (của các sự kiện).

Khen như thế chắc cũng hết mức rồi!

Mà chê th́ cũng lắm. Thành công của Bonjour tristesse, theo một số nhà phê b́nh, nếu gạt ra ngoài những ảnh hưởng tâm lư và xă hội do thời điểm xuất hiện của tác phẩm, th́ cũng chỉ là thành công của một tiểu phẩm – petite musique – v́ nó đă mỏng lại không chứa đựng ư tưởng ǵ lớn lao (pas grand-chose). Khái niệm «tiểu phẩm» về sau được sử dụng bởi những người chỉ trích để mỉa mai Bonjour tristesse. Mặt khác, họ cho rằng Sagan viết quá nhiều, do đó, các tác phẩm về sau càng ngày càng nhạt nhẽo, mất tính nghiêm túc. Họ nhiều lần lên tiếng phê phán lối viết dễ dăi cũng như thứ tư tưởng chuộng khoái lạc quá đáng đến chỗ gần như ngông cuồng của bà. Điều đó khiến cho các nhà xuất bản lên tiếng khuyến cáo, hy vọng Sagan viết lách đàng hoàng hơn và cố gắng hơn. Nhưng bà làm ngơ. Cuối cùng, các nhà xuất bản đành quyết định ngưng những số tiền ứng trước mà họ vẫn dành cho bà để viết tác phẩm mới. Cũng dễ hiểu tại sao, tất cả những những tác phẩm sau này, kể cả kịch, đều không hưởng được những thành công như Bonjour tristesse. Theo Roger Shattuck - sử gia và giáo sư Pháp văn tại đại học Boston University -, tiếng tăm của Sagan “đă suy giảm đáng kể sau chừng 5, 6 cuốn đầu tiên” v́ bà viết quá nhiều và lập đi lập lại măi những ǵ ḿnh đă viết và cũng v́ cách thưởng thức văn chương thay đổi theo thời gian.

Một nhà phê b́nh văn chương khác, Serge Gavronsky - giáo sư văn chương Pháp tại đại học Bernard -, trong một cuộc phỏng vấn vào năm 1995, cho rằng những truyện dài đầu tay của Sagan diễn tả sự nổi loạn và tính ích kỷ của nhiều trong số những bạn đồng lứa của bà trong các gia đ́nh trưởng giả Pháp, hoàn toàn phù hợp với khoảng thời gian đó - khoảng giữa thập niên 1950 – và “gắn chặt” với quá khứ văn chương Pháp. Nói khác đi, chúng chỉ là những tác phẩm tồn tại một thời.

Nhưng có lẽ lời kết án Sagan nặng nề nhất nằm trong tác phẩm biên soạn văn chương căn bản dùng cho học sinh Pháp, “Les auteurs de la Litérature francaise”, theo đó, thế giới trong truyện của Sagan là “một thế giới tục lụy, giàu có, nhàn rỗi và xa hoa; một số nhân vật sống mà không quan tâm đến vật chất, đó là những kẻ say sưa, yêu nhau bừa băi mà không bị lên án. Do chuộng những ǵ dở dang, chuộng lối phân tích gay gắt, cay độc và có tính ái kỷ (narcissism), Sagan măi măi được xem như là đă làm hư hỏng cả một thế hệ” (New York Times, 25/9/04).

Tuy viết nhiều và rất nổi tiếng, chỉ trừ giải “Prix des Critiques” được tặng cho Bonjour tristesse năm 1954 và giải “Prix de Monaco” cho toàn thể tác phẩm của bà năm 1984, Sagan không đoạt được giải văn chương nào đáng kể nào của Pháp và thế giới. Sagan coi thường chuyện đó. Đă có lần, khi được đề cử trở thành một thành viên của Hàn Lâm Viện Pháp, bà từ chối thẳng thừng. Bà cho biết, bà đă đọc đủ những cuốn sách hay để nhận ra sự khác biệt giữa giá trị văn chương của Bonjour tristesse (mà bà quả quyết là chưa bao giờ đọc lại) và những bàn tán ầm ĩ quanh tác phẩm. Giám đốc nhà xuất bản Robert Laffont nhận xét: “Bà không được thừa nhận như một nhà văn vĩ đại, nhưng điều đó chẳng quan trọng ǵ. Bà viết những ǵ bà thích và chẳng quan tâm ǵ đến những điều khác, về các giải thưởng. Bà viết cho chính bà”.

o0o

Văn th́ thế, c̣n người th́ sao?

Người ta thường gọi bà là “écrivain bohémien” (nhà văn phóng đăng, sống ngoài ṿng cương tỏa). Bản thân bà là một nhân vật, hơn thế nữa, một siêu nhân vật. Khác với quan niệm cho rằng nhà văn là loại người im lặng, chịu đựng và viết, Sagan viết và sống, sống đến tận cùng của cuộc sống. Viết những ǵ bà sống và sống những ǵ bà viết. Bà tạo ra chúng bằng chữ nghĩa của riêng bà, không trường phái, không quan tâm đến những chê, khen này nọ. Khen th́ OK, mà chê cũng OK. Nói theo kiểu Sagan, “Tôi là một thứ tai nạn kéo dài” (Je suis un accident qui dure). Và công chúng theo dơi cái “tai nạn kéo dài” đó rất kỹ, không chán, không mệt. Từ lúc c̣n là một cô gái 19 tuổi (có lẽ) cho đến khi bà ĺa đời. Quanh đời sống của bà là những scandale. Scandale tiếp nối scandale. Nhiều đến nỗi, với Sagan, scandale đâm ra mất hết ư nghĩa nguyên thủy để chỉ c̣n là những tin thời sự sốt dẻo, lúc nào cũng lôi cuốn thứ công chúng ṭ ṃ. Áo quần, tai nạn, t́nh nhân, du lịch, quan hệ, bài bạc, rượu chè, thôi th́ đủ thứ, bất cứ ǵ dính đến Sagan cũng có thể trở thành những sự kiện nóng sốt, góp phần nuôi dưỡng các cột báo Pháp hàng ngày.

Với một khuôn mặt gầy, nhỏ, đôi mắt tinh quái nhô ra từ một mớ tóc cắt ngắn, trong hai thập niên 1950 và 1960, h́nh ảnh của bà dường như trở thành một thứ dáng dấp cấp tiến của Paris. Bà cùng bạn bè lập ra nhóm tiền phong “La bande Sagan”, trong đó có cả ca sĩ Juliette Greco. Bà thường xuyên xuất hiện ở các quán cà phê, hộp đêm, các quán ăn với những nhân vật nổi tiếng trong văn giới như Jean Paul Sartre, Hemingway, Henry Miller và trong chính giới như chính trị gia trẻ tuổi tả phái Françoise Mitterand, hút thuốc lá hiệu Gauloises, tay bưng cốc cà phê. Một trong những mốt của Sagan là đi vào hộp đêm với một người bảo vệ và đi ra với một người bảo vệ khác, luôn luôn đậu xe thể thao ngay ngoài cửa nơi đến bất chấp luật lệ giao thông. Để minh họa cho rơ hơn h́nh ảnh độc đáo của Sagan, h́nh b́a của một trong những tác phẩm in h́nh bà cỡ tuổi 19, 20 khoác trên người chiếc áo da dài đứng cạnh cửa của chiếc xe hơi hiệu Jaguar, với đôi mắt viền đậm.

Xuất phát từ quan niệm riêng mà cũng do sự thúc đẩy bởi tiền bạc và tiếng tăm, bà lăn xả vào một cuộc sống ồn ào, sôi động ngay lúc chưa tới tuổi 20: uống rượu thâu đêm suốt sáng, say mê bài bạc, khoái lái xe thể thao với tốc độ cao. Một cuộc thăm ḍ dư luận được tiến hành vài năm sau khi Bonjour tristesse ra đời cho thấy hầu hết mọi người đều cho rằng Sagan là một ngôi sao điện ảnh hơn là một nhà văn. Bà đề cập đến cái thú lái xe hết tốc lực trong Avec mon meilleur souvenir, un recueil de portraits (1984): “Bất cứ ai mà không cảm thấy hưng phấn với tốc độ th́ chẳng có hưng phấn để sống. Dù ta có điền cuồng và tuyệt vọng trong t́nh yêu đến đâu, lúc lái xe với tốc độ 120 dặm một giờ, ta sẽ thấy bớt đi nhiều. Máu sẽ không c̣n đông cứng quanh trái tim ta; máu ta đập tối đa trong cơ thể, cho đến tận từng ngón tay, ngón chân và tṛng mắt, lúc đó chúng là những kẻ canh giữ quyết định và không mệt mỏi của cuộc đời ta”. Năm 1957, có lần bà đă bị tai nạn xe hơi, làm nứt xương sọ và nhiều vết thương khác khi chiếc xe hiệu Aston-Martin lật ngược ở tại Milly, một thị trấn miến bắc nước Pháp, khiến bà bị hôn mê suốt cả ba ngày mới tỉnh.

Táo tợn hơn, Sagan yêu đương bừa băi, buông thả ḿnh trong sinh hoạt t́nh dục gần như vô độ với nhiều bạn t́nh khác nhau. Một trong những bạn t́nh của Sagan cho biết là Sagan “muốn thử qua mọi kinh nghiệm ái ân, với hai người, có khi với ba hay bốn người và cả với phụ nữ”. “Tôi thật may mắn quá sức bởi v́ khi tôi lớn lên th́ đồng thời thuốc ngừa thai đă xuất hiện. Khi tôi 18 tuổi, tôi nghĩ ḿnh có thể chết đi được v́ sợ có thai, nhưng rồi có thuốc ngừa thai và thế là tôi mặc sức yêu đương thả giàn mà chẳng có hậu quả ǵ, có đến 30 năm. Sau đó th́ bệnh AIDS mới xuất hiện. Ba mươi năm này trùng hợp với tuổi trưởng thành của tôi, cái tuổi dành để vui chơi thỏa thích”, bà phát biểu trong một cuộc phỏng vấn được thực hiện trước phiên toà xử bà về tội hút xách năm 1993.

Sagan c̣n sử dụng ma túy. Bà hai lần bị bắt v́ hút xách và tàng trữ thuốc phiện, vào các năm 1990 và 1995, phải đóng tiền phạt và bị tù treo, khiến có lần, lănh tụ hữu khuynh Jean Marie Le Pen lên tiếng đ̣i hỏi bà phải bị treo cổ v́ tội chứa chấp và sử dụng ma túy. Năm 2002, bà lại dính líu đến pháp luật một lần nữa v́ đă không khai thuế về số tiền hơn 800 ngàn euro kiếm được do một áp phe về dầu hỏa, có liên quan đến cựu tổng thống Pháp Mitterand, bạn của bà.

Về chuyện gia đ́nh, bà có hai đời chồng. Năm 1958, bà lấy Guy Schoeller, lớn hơn bà 20 tuổi, ly dị năm 1960. Năm 1962, tái giá với Robert James Westhoff, một điêu khắc gia Mỹ. Hai người có một đứa con trai, Denis. Năm sau, 1963, lại ly dị. Sau đó, bà quyết định sống độc thân cho đến chết. Bà nghĩ ǵ về t́nh yêu? “Tôi cho rằng t́nh yêu giống như một căn bệnh, một sự ngộ độc. Thỉnh thoảng, tôi bị ngộ độc chừng 3 hay 4 năm, và rồi không bao giờ nữa. Tôi nghĩ rằng người ta có thể sống với nhau hạnh phúc hơn là tôi thường tin, nhưng tôi vẫn không cho rằng nó có thể là măi măi”. C̣n hôn nhân th́ sao? Là “món măng tây ăn cùng với xà lách trộn, cũng ngon đấy nhưng chả có ǵ quan trọng”.

o0o

Thập niên 1960, Sagan tuyên bố ḿnh chọn lập trường tả khuynh, v́ “mốt” hơn là v́ xu hướng chính trị thay đổi.

Thập niên 1970, tóc bà đột nhiên chuyển từ màu nâu sang vàng hoe, bà càng muốn sống vội hơn nữa. Đam mê đánh bạc mạnh thêm đến nỗi Bộ trưởng Nội Vụ phải tuyên bố cấm bà không được vào các ṣng bài. Sau nhiều lần suưt chết vào năm 1978, bà bị chẩn đoán lầm là bị bệnh ung thư, bà ngưng uống rượu một thời gian.

Trong thập niên 1990, có khoảng thời gian bà đâm ra sống đàng hoàng. Bà ủng hộ tổng thống xă hội Mitterand, bàn đến các vấn đề chính trị nghiêm túc, vận động cải cách chế độ lao tù, chống kỳ thị và chống chiến tranh. Năm 1994, tác phẩm Un chagrin de passage viết về một người đàn ông tiếp cận với nỗi cô đơn sau khi biết ḿnh chỉ c̣n sống có 6 tháng trên đời, khiến người ta hy vọng bà sẽ trở lại với chuyện viết lách nghiêm túc. Nhưng thói nào tật đó. Dường như bà không thoát khỏi số phận của ḿnh. Năm 2001, bà bị ra ṭa v́ tội trốn thuế và bị án một năm tù treo. Bản án khiến cho những người hâm mộ bà tức giận. Họ phát biểu: “Bà nợ tiền của Quốc Gia, nhưng nước Pháp c̣n nợ bà nhiều hơn nữa” [3]

Cái nh́n của Sagan về chính bà và đời sống của ḿnh rất thành thật. Trong Et toute ma sympathie (1993) ghi lại nhiều suy gẫm của bà, bà nhận xét ḿnh là một “thứ đàn bà kỳ quặc, trẻ con và rối rắm. Dẫu vậy, bà không bao giờ thốt ra một lời tỏ ư tiếc về cách sống “vô độ”, không kiềm chế của ḿnh nhưng thú nhận rằng bà chưa bao giờ thực sự trưởng thành. “Kết quả là tôi thực sự không hiểu những giá trị của người lớn và tôi sẽ không bao giờ (muốn) hiểu”. Khác với những người phụ nữ lớn tuổi, thường chọn h́nh thức thỏa hiệp và an phận, Sagan luôn luôn giữ cái nh́n của một đứa trẻ con, kinh ngạc, sắc sảo, bỡ ngỡ, sẵn sàng lao vào phung phá cuộc đời, khinh miệt những lợi lộc bản thân, chứa đựng một năng lực bền bỉ trong một thể chất mảnh dẻ khiến ta nghĩ rằng bà sẵn sàng chống báng lại mọi điều. Có lần, bà nói với một viên chức tư phá p điều tra rằng “Tôi tin rằng tôi có quyền tự hủy miễn là tôi không làm hại ai”.

Được yêu cầu kể ra những nhân vật mà bà ngưỡng mộ nhất, bà trả lời: Nhiều, trong đó có Jean-Paul Sartre (1905-1980). Đó là người mà bà giao du mật thiết cho đến lúc ông chết. Những ngày cuối đời, bà thường t́m đến thăm Sartre, lúc này đă mù, và dẫn ông đi chơi, đi ăn sáng, ăn tối. Trong Avec mon meilleur souvenir, un recueil de portraits (1984), bà dành cho triết gia này những gịng chân t́nh nhất: “Nói ngắn gọn, ông là người đă yêu mến, đă viết, đă chia sẻ, đă cho tất cả những ǵ gọi là quan trọng mà ông muốn cho, đồng thời, ông từ khước tất cả những ǵ hào nhoáng mà người ta dành cho ông (...) Sartre sinh ngày 21/6/1905, tôi sinh ngày 21/6/1935, nhưng tôi không nghĩ rằng – vả lại, tôi chẳng muốn nghĩ đến điều đó – tôi không nghĩ rằng tôi sẽ c̣n trải qua đến 30 năm nữa mà không có ông trên hành tinh này”.

Những năm cuối đời, Sagan dường như không c̣n là Sagan nữa. Xương sọ vỡ. Bà chịu nhiều lần giải phẫu, ngồi xe lăn, chống nạng. Nợ nần chồng chất, bà phải bán căn nhà ở Normandie, và sống qua ngày ở nhà những người bạn. Cuối cùng, bệnh nặng quá, bạn bè đưa vào nhà thương. Và chết!

Sagan được an táng tại ngôi làng Seuzac, gần Cajarc nơi bà chào đời, vào ngày 28/9/2004.

o0o

Đấy, Françoise Sagan! Văn chương và đời sống. Dù ghét dù thương, hẳn mọi người đều nhận rằng bà đă viết và đă sống một cuộc đời ngay thẳng, minh bạch, không ngụy trang, giấu giếm.

Dẫu vậy, cho đến cuối đời, người ta vẫn ngờ rằng có một cái ǵ khác nằm đàng sau con người nổi loạn, ngang tàng, trụy lạc đó. Cái ǵ? Bí ẩn nào? Tại sao? Nhà phê b́nh văn chương Pháp Bernard Poitrot-Delpech, khi nhắc đến “bí ẩn Sagan”, cho ta một câu trả lời giản dị, quá giản dị: “Bí ẩn Sagan? Đơn giản biết bao, đó chỉ là nghệ thuật trở thành CHÍNH M̀NH, trên trang giấy trắng, trong cuộc đời” [4] (“Sagan, l’art d’être SOI”, Le Monde 25/9/04).

Có đúng như thế không? Tùy!

Thôi th́ hăy đọc lại đoạn văn sau đây:

“Seulement quand je suis dans mon lit, à l’aube, avec le seul bruit des voitures dans Paris, ma mémoire parfois me trahit: l’été revient et tous ses souvenirs. Anne, Anne! Je répète ce nom très bas et très longtemps dans le noir. Quelque chose monte alors en moi que j’accueille par son nom, les yeux fermés: Bonjour Tristesse.” [5] (tr. 180)

Đó là đoạn cuối trong Bonjour tristesse, một trong những đoạn văn đă để lại dấu ấn khó phai trong nền văn chương thế giới. Lần đó, đôi mắt cô bé Sagan chỉ khép nhẹ để chào nỗi buồn. Lần này, đôi mắt bà Sagan khép chặt vĩnh viễn. Nỗi buồn Sagan theo Sagan mà ra đi. Nhưng để lại một nỗi buồn khác: nỗi buồn của chính chúng ta. Notre tristesse!

Xin chào vĩnh biệt, tiểu yêu nữ khả ái Françoise Sagan!

Một lần nữa: BONJOUR TRISTESSE!

(đầu tháng 10/2004)


--------------------------------------------------------------------------------
Tham khảo:
- Bản tin của Reuters, AFP các ngày 24&25/9/04
- Eric Pace, “Françoise Sagan, Who had a Best Seller at 19 With “Bonjour Tristesse” Dies at 69”,
  New York Times 25/9/04
- Bernard Lehut, “Adieu Françoise, bonjour tristesse”, Le Monde 25/9/04
- Josyane Savigneau, “Sartre est né le juin 1905, moi le juin 1935”, Le Monde 25/9/04
- Bertrand Poirot-Delpech, “Sagan, l’art d’être SOI”, Le Monde 25/9/04
- Etienne de Montety, “Sagan: charmant petit monstre sacré”, Figaro Magazine 2/10/04
- Henry Haget, “Sagan et nous”, L’Express 27/9/04
- Alain Louyot, “Sa dernière interview à L’Express”, L’Express 27/9/04
- Đặng Tiến, “Françoise Sagan, Buồn ơi vĩnh biệt”
- Françoise Sagan, “Bonjour tristesse”, Livre de poche, 1981
- Françoise Sagan (1935-2004), http://www.kirjasto.sci.fi/sagan.htm
- Adam Bernstein, “Françoise Sagan, Eccentric Writer Of 'Bonjour Tristesse,' Dies at 69”,
  Washington Post 27/9/04
- Katherine Pancol, “Sagan, une inoubliable légèreté”, Paris-Match 29/9/04
- Nguyễn Văn Lục, “20 năm văn học dịch thuật miền Nam 1955-1975”, Hợp Lưu 79, tháng 10&11/2004

---------------------
[1]Pierre Choderlos de Laclos (1741 – 1803), nhà văn Pháp. Tác phẩm “Liaisons dangereuses” đạt được một thành công ngoại hạng và là một scandale thời đó.
[2]Tout est fade après un tel livre.
[3]Elle doit de l’argent à l’Etat mais la France lui doit beaucoup plus.
[4]Le mystère Sagan? Tout simplement l’art d’être SOI, sur la page blanche, dans la vie.
[5]Đôi khi, chỉ khi tôi lên giường nằm ngủ vào lúc rạng đông, với tiếng động duy nhất là xe cộ chạy trong thành phố Paris, th́ trí nhớ phản bội tôi: (tôi tưởng) mùa hè trở lại với tất cả những kỷ niệm (êm đềm) của nó. Anne, Anne! Tôi gọi thầm tên Anne nhiều lần, gọi rất lâu trong bóng tối. Có điều ǵ dâng lên trong ḷng khi tôi đón nhận cái tên này, mắt tôi khép lại: Buồn ơi, chào mi!


Hết