nghẹt ở
phổi. Denis - đứa con trai duy nhất có với người chồng thứ
hai Robert James Westhoff - và Marie-Therese Le Breton -
quản gia, người đă từng nuôi nấng Sagan - ở bên bà vào những
giây phút cuối cùng. “Sagan nói với tôi ‘Tôi không muốn
chết’ và rồi bà ấy chết trong tay tôi, đôi mắt mở lớn...”,
bà quản gia kể lại.
Không mấy ai ngạc nhiên về cái chết của Sagan v́ sức khỏe
của bà đă suy yếu nhiều trong những năm vừa qua. Nhưng đối
với công chúng Pháp, cái chết đó vẫn tạo nên một cú “sốc”.
Từ lâu, bà không chỉ là “vật tổ” (totem) của một thời đại,
một thế hệ mà là một nhà văn Pháp đương thời nổi tiếng nhất
thế giới. Hơn 30 triệu ấn bản các tác phẩm của bà đă được
bán ra. Nhiều luận án về bà và tác phẩm đă được viết tại
nhiều đại học trên thế giới, nhất là tại Hoa Kỳ. Hầu hết
trong số hơn 40 tác phẩm của bà (hay hoặc dở) đều được dịch
ra tiếng Anh và nếu không nằm ở danh sách bestseller th́
cũng được tiêu thụ nhanh chóng. Học sinh Nga học tiếng Pháp
bằng các tác phẩm của bà. Một số câu lạc bộ ở Nhật lấy tên
Sagan, vân vân.
Cứ lướt qua phản ứng của nhiều giới chức Pháp cũng như báo
chí là ta có thể h́nh dung ảnh hưởng của bà đối với công
chúng Pháp như thế nào. Tổng thống Pháp Jacques Chirac bày
tỏ nỗi thương tiếc và xúc động ngay sau khi nghe tin bà chết
qua một bản tuyên bố trong đó, ông cho rằng “Bà chết đi,
nước Pháp đă mất đi một trong những tác giả độc đáo nhất và
nhạy cảm nhất, một khuôn mặt sáng giá trong sinh hoạt văn
chương của chúng ta. Với sự sắc sảo, trí tuệ và tinh tế,
Françoise Sagan đă thăm ḍ những nguyên động lực và những
đam mê của tâm hồn con người” (...) Bà đă góp phần vào sự
tiến bộ của vị trí người phụ nữ trong xă hội chúng ta”.
Thủ tướng Pháp Jean-Pierre Raffarin: “Françoise Sagan, đó là
một nụ cười, sầu muộn, khó hiểu, xa cách nhưng mà vui”.
Bộ trưởng văn hóa Renaud Donnedieu de Vabres: “Chúng ta đă
mất đi một nhân vật ngoại hạng, một nghệ sĩ đầy tài năng”.
Nghệ sĩ Pháp Laurent Terzieff: “Bà mất đi, mang theo màu sắc
và sự hài hước của cả một kỷ nguyên”.
Nhiếp ảnh gia Jean-Marie Perier: “Bà là một Rolling Stone
[1] trước khi thuật ngữ này được sáng tạo”
Báo chí Âu Châu thương tiếc bà qua nhiều hàng tít lớn lấy từ
tựa đề những tác phẩm nổi tiếng nhất của Sagan, chẳng hạn tờ
La Vanguardia ở Tây Ban Nha: “Bonsoir Françoise”; tờ
Corriere della Sera ở Ư: “Françoise Sagan, adieu tristesse”.
Báo chí Pháp th́ khỏi nói. Paris Match: “Sagan, une
inoubliable légèreté”. Le Figaro: “Sagan: charmant petit
monstre sacré”. L’Express, Le Figaro cũng như Le Monde cho
đi cả một loạt bài vinh danh con người và sự nghiệp của
Sagan. Dưới tựa đề “Tristesse”, tờ Liberation nói Sagan, mà
những h́nh ảnh thời tuổi trẻ tràn đầy các trang đầu báo
Pháp, không bao giờ làm cái ǵ nửa chừng. “Đời bà y như một
cơn gió xoáy... Rộng lượng, đầy cảm hứng, nhanh nhảu, nổi
loạn, không thể phân loại, không thể bắt chước. Chúng ta yêu
mến Sagan, ngay cả nếu chúng ta chưa hề đọc sách của bà hay
không c̣n đọc sách của bà nữa. Sagan là một cái ǵ c̣n hơn
cả chính Sagan, c̣n hơn là một hiện tượng viết văn: một nhà
văn, một phụ nữ, một kỷ nguyên. Bà vội vă đi hết tốc lực
xuyên suốt cuộc đời và tác phẩm của ḿnh, chẳng thèm quan
tâm đến ḿnh”.
Tờ báo bán chạy nhất Pháp Ouest-France, lưu ư rằng mặc dầu
rất nổi tiếng bà chẳng đoạt được một giải thưởng văn chương
quan trọng nào của Pháp, nhưng “Mỗi một tác phẩm xuất bản
của bà đều lôi kéo sự chú ư của báo chí và dư luận, ngay cả
đôi khi tác phẩm đó được xem như nông cạn, hời hợt. Bà hầu
như đă thành công gây cảm hứng tạo ra tính từ “saganesque”.
Saganesque là ǵ? Là “nhớ nhà và buồn cười, hết sức tầm phào
và rất rơ ràng. [2]
Tờ Le Parisien với tựa đề “Adieu Sagan, bonjour tristesse”:
“Cuộc đời của bà thực sự là một trường thiên tiểu thuyết,
được đánh dấu bởi những vinh quang và giàu có, rồi bởi những
khó khăn và suy sụp. Một huyền thoại đă ra đi. Bà là
(Brigitte) Bardot [3] của văn chương”
o0o
Françoise Sagan! Bonjour tristesse! Buồn ơi, chào mi!
Cái tên, cái tựa đề không chỉ là tên và tựa đề mà – với tôi
- là biểu trưng cho cả một thời kỳ.
Đầu thập niên 1960, thế hệ chúng tôi – đặc biệt những người
sống ở các thành phố lớn như Huế, Sài G̣n, Đà Nẵng, Đà
Lạt... - vừa bước ra khỏi thế giới tuổi thơ trong một khoảng
thời gian hiếm hoi đất nước sống trong thanh b́nh. Người đệ
nhị, kẻ đệ nhất [4], người th́ vừa bước chân lên ngưỡng cửa
đại học, chúng tôi được chứng kiến và sống trọn với nhiều
chuyển biến đă để lại ảnh hưởng sâu đậm đến nền văn học nghệ
thuật miền Nam và rồi là Hải Ngoại nhiều thập niên sau này.
Về văn, từ những Hồm bướm mơ tiên, Đoạn tuyệt, Nửa chừng
xuân... chúng tôi bước vào Bếp Lửa, Cũng đành, Chuyến tàu
trên sông Hồng, Mái tóc bạch kim... Trong các lớp ban C cấp
3, thầy cô đă từng bước cho học sinh thuyết tŕnh những tác
phẩm mới thay v́ chỉ những tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn. Tôi
biết có giáo sư đă cho một học sinh đệ tam (lớp 9) thuyết
tŕnh “Cũng đành” của Dương Nghiễm Mậu. Về báo, từ Phổ
Thông, Thời Nay, Văn Hóa Ngày Nay, chúng tôi bước vào Sáng
Tạo, Hiện Đại, Thế Kỷ Hai Mươi. Về tác giả, từ Nhất Linh,
Khái Hưng, Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư..., chúng tôi
hào hứng đến với Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Tô Thùy Yên,
Dương Nghiễm Mậu, Mai Thảo. Về hội họa, chúng tôi tiếp cận
với hội họa phương Tây qua một lớp họa sĩ trẻ tài năng và
nhiệt t́nh qua “Hội hoạ sĩ trẻ” với những Đinh Cường, Trịnh
Cung, Nguyễn Trung, Tôn Thất Văn, Hồ Thành Đức. Rồi nào là
Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Trịnh Công Sơn và rất nhiều
khuôn mặt mới toanh khác, thuộc đủ mọi ngành nghệ thuật.
Về văn học nước ngoài, tuy người Pháp đă ra đi, nhưng ảnh
hưởng của văn hóa Pháp vẫn c̣n mạnh mẽ. Chúng tôi vẫn thích
nói về Paris, về viện bảo tàng Louvre, về sông Seine, về khu
Saint Germain des prés, về công viên Luxembourg – những nơi
nào đó ở Paris mà chúng tôi chẳng hề đặt chân tới. Trước khi
văn hóa Mỹ cùng với chiến tranh chế ngự không khí văn hóa và
xă hội Việt Nam, chúng tôi đọc sách báo Pháp, nghe nhạc
Pháp, xem phim Pháp, chuộng phong thái “parisienne”. Chúng
tôi vẫn thường lui tới các pḥng thông tin văn hóa Pháp để
đọc sách, muợn sách và theo học các lớp Pháp ngữ. Từ
Alphonse Daudet, Victor Hugo, Lamartine, chúng tôi “đụng”
Sartre, Camus, Jacques Prévert... Mốt hồi đó, là sau yên
chiếc xe đạp hay trên tay, lúc nào cũng có một cuốn “Livre
de poche” gọn, nhỏ (mà chữ nghĩa và tên tuổi rất “nặng kư”),
nếu không La condition humaine, Huis-clos, Le mur...th́ cũng
La nausée, Les mains sales, Le malentendu. Ấy, đọc Sartre,
Camus, Malraux, xem phim Brigitte Bardot, và say sưa thưởng
thức các giọng ca hàng đầu Pháp Sylvie Vartan, Johnny
Hallyday, Françoise Hardy với những bài hát Pháp vừa mới
sáng tác là “mốt” thời thượng của chúng tôi.
Đó cũng là thời xuất hiện các quán cà phê văn nghệ, nơi
chúng tôi đàn đúm ngày đêm để đấu láo, tán róc. Dáng dấp anh
nào anh nấy đă có cái ǵ lất khất, lừng khừng, bụi bụi.
Khuôn mặt lúc nào cũng ra vẻ bất cần đời. Có tay, đầu đội mũ
bê rê lệch, miệng ngậm tẩu, khoác áo pardessus, trông có vẻ
Tây, thầm hănh diện với mấy ngón tay cháy vàng khói thuốc.
Những “cuộc” cà phê thâu đêm suốt sáng đêm. Những “trận”
rượu ngất ngưởng. Chữ nghĩa nghe mới toanh: hư vô, hiện
sinh, mệt nhoài, nổi loạn, thái độ, dấn thân, phi lư...
Françoise Sagan – và Bonjour tristesse - xuất hiện trong
không khí đó. Thời đó, sau khi người Pháp ra đi, trừ những
gia đ́nh giàu có cho con theo học các trường Tây, c̣n hầu
hết chúng tôi đều học chương tŕnh Việt. Pháp văn (cũng như
Anh Văn) trở thành ngoại ngữ, trung b́nh chỉ có 4 giờ/tuần.
Bởi thế, những tác phẩm “nặng kư” của Sartre, hay Camus, hay
Malraux không phải là dễ đọc đối với chúng tôi. May nhờ sách
dịch và các tạp chí văn chương giới thiệu, nên ít nhiều cũng
nắm được nội dung để có thể lần ṃ đọc và hiểu. Khác với
những tác phẩm kể trên, Bonjour tristesse ngắn, ấn bản
“Livre de poche” chỉ có 173 trang, chữ khổ trung b́nh. Văn
viết gọn ghẽ, dễ hiểu. Tư tưởng tuy mới, nhưng không có ǵ
cao siêu, khó hiểu, chỉ cần tŕnh độ Pháp văn trung b́nh là
có thể đọc hết nguyên con trong một thời gian tương đối
ngắn. Với Bonjour tristesse, một cánh cửa vốn đóng im ỉm
bỗng nhiên mở toang trước mặt chúng tôi. Thế giới đột nhiên
mênh mông hẳn ra. Cuộc sống bỗng nhiên trở thành lạ mặt.
Thành phố, người thân, người yêu, bạn bè, trường học, gia
đ́nh... bỗng xuất hiện trong một dáng dấp hoàn toàn mới.
Nhà phê b́nh Đặng Tiến – trước chúng tôi chừng nửa thế hệ -
ghi nhận: năm 1954, “miền Nam Việt Nam trở thành một thực
thể chính trị độc lập, thật sự mở cửa đón nhận ảnh hưởng văn
hóa Phương Tây. Sách báo phương Tây du nhập ồ ạt: sách tiếng
Anh (của Usis), tiếng Đức (của viện Goethe) và nhất là sách
tiếng Pháp nhập khẩu với giá rẻ nhờ có tài trợ (sách AC,
Action Culturelle) cước phí rẻ, giá ân huệ, tràn ngập các
hiệu sách Xuân Thu, Lê Phan và các nhà sách trên đường Lê
Lợi. Tại Sài G̣n, 1954, người đọc tiếp nhận Bonjour
tristesse cùng một lúc với Paris, mà giá rẻ hơn (tương đối
với ngoại tệ). Và cùng một lúc với sách báo, quần chúng Việt
Nam tiếp xúc với âm nhạc, điện ảnh Tây Phương. Bản thân tôi
đă xem vở kịch Chateau en Suede (Lâu đài Thụy Điển), 1960,
của Sagan tại Sài G̣n, cùng lúc với Paris, do Pháp Văn Đồng
Minh Hội (Alliance Francaise) tổ chức” [5] .
Nguyễn Văn Lục, trong một bài viết công phu trên tạp chí Hợp
Lưu [6] , liệt kê rất đầy đủ sách dịch trong ṿng 20 năm ở
miền Nam, 1955-1975, cho biết người đầu tiên giới thiệu
Sagan là giáo sư Nguyễn Nam Châu, sau đó là Cô Liêu (Vũ Đ́nh
Lưu) với bài “Sứ mệnh văn chương của Françoise Sagan” (Bách
Khoa/1958) và Hoàng Thái Linh (Nguyễn Văn Trung) với bài
“Trường hợp Sagan hay vấn đề luân lư trong tiểu thuyết”. Về
dịch thuật, Nguyễn Văn Lục ghi nhận có 4 tác phẩm của Sagan
được dịch ra tiếng Việt, đó là: Bonjour tristesse (một do
Nguyễn Vỹ và một do Lê Huy Oanh), Un certain sourire (do
Nguyễn Minh Hoàng), Dans un mois, dans un an (do Bửu Ư) và
Les merveilles nuages (do Đinh Bá Kha). Bonjour tristesse
được Nguyễn Vỹ dịch là “Buồn ơi, chào mi”, c̣n Lê Huy Oanh
dịch là “Buồn ơi, xin chào”, nhưng không hiểu sao cụm từ
“Buồn ơi chào mi” lại được nhắc nhở nhiều hơn, có lẽ v́ nghe
nó thuận tai chăng?
Trước khi đi xa hơn với cuộc đời và sự nghiệp của Sagan, ta
hăy nói về Bonjour tristesse. Xin tóm tắt câu chuyện:
Cô gái tên là Cécile, 17 tuổi cùng cha, Raymond, trong độ 40
tuổi, góa vợ và bà Elsa, t́nh nhân của cha, đi nghỉ hè ở bờ
biển Côte d’azur. Sau, cha cô mời thêm một người bạn cũ của
mẹ cô là Anne cùng đến đó. Trên băi biển, cô quen một sinh
viên, cũng đi nghỉ hè, tên là Cyril, và cùng nhau đi chơi,
đi bơi, đi khiêu vũ. Hai người hôn nhau, làm t́nh với nhau.
Anne là một người đàn bà cỡ tuổi 40, chăm sóc cô như một
người mẹ và khá nghiêm khắc. Bà ta tỏ ra không ưa Cyril và
muốn Cécile bỏ anh ta và học để thi lại cái bằng tú tài mà
cô hỏng năm rồi. Điều này khiến Cécile vô cùng bực bội và
đâm ra ghét Anne. Đă thế, sau một thời gian ngắn, cha cô yêu
Anne, bỏ rơi Elsa và dự tính kết hôn cùng bà ta, khiến cô
lại càng tức giận. Thế là cô cùng anh chàng t́nh nhân vừa
quen sắp đặt một kế hoạch để ly gián hai người. Được sự đồng
ư của Elsa (bà này cũng đang buồn v́ bị t́nh phụ), hai người
dàn một cảnh yêu đương và để cho cha cô trông thấy. Ông giận
dữ, tức tối v́ thấy thấy t́nh nhân của ḿnh lại bị một tay
trai trẻ bằng tuổi con ḿnh chiếm đoạt, nên hối hận, quay về
với Elsa. Anne bắt gặp hai người âu yếm, buồn t́nh bỏ đi, và
bị tai nạn, chết. Mọi người hối hận, nhưng mọi sự đă rồi.
Cha cô và cô trở về lại Paris, sống lại đời sống b́nh thường
cũ. Nhưng cô gái trẻ bây giờ không c̣n vô tư như trước mà
phát sinh ra một trạng thái t́nh cảm mới: nỗi buồn.
T́nh tiết câu chuyện nghe đă lạ. Văn vẻ càng lạ hơn. Xin ghi
lại vài đoạn trích từ Bonjour tristesse, nguyên bản Pháp ngữ
[7] (có tạm dịch ở phần ghi chú). Tác phẩm mở đầu như sau:
“Sur le sentiment inconnu dont l’ennui, la douceur
m’obsèdent, j’hésite à apposer le nom, le beau nom grave de
tristesse. C’est un sentiment si complet, si égoiste que
j’en ai presque honte alors que la tristesse m’a toujours
paru honorable. (...) Aujourd’hui, quelque chose se replie
sur moi comme une soie, énervante et douce, et me sépare des
autres. Cet été-là, j’avais dix-sept ans et j’étais
parfaitement heureuse. Les “autres” étaient mon père et
Elsa, sa maitresse” [8] (tr. 1)
.
o0o
Nụ hôn đầu đời:
“Il me tenait serrée contre lui, soulevée, la tête sur son
épaule. En ce moment-là, je l’aimais. Dans la lumière du
matin, il était aussi doré, aussi gentil, aussi doux que
moi, il me protégeait. Quand sa bouche chercha la mienne, je
me mis à trembler de plaisir comme lui et notre baiser fut
sans remords et sans honte, seulement une profonde
recherche, entrecoupée de murmures.” [9] (tr. 34)
Chữ nghĩa không có ǵ cầu kỳ, câu kéo gọn gàng và rất “văn
phạm”, dễ tiếp cận. Hơi văn th́ nhẹ nhàng, nhưng nghe có ǵ
mệt mỏi, chán chường, bất cần đời một cách đầy kiêu hănh.
Đoạn gay cấn nhất trong tác phẩm: cô gái Cécile 16 tuổi tự ư
t́m đến người con trai 26 tuổi vừa quen. Cảnh làm t́nh được
diễn tả ngắn gọn, cô đọng như sau:
“Il m’avait rattrapée par le bras et me retenait en riant.
Je me retournai vers lui et le regardai; il devint pâle
comme je devais l’être moi-même et lâcha mon poignet. Mais
ce fut pour me reprendre aussitôt dans ses bras et
m’entrainer. Je pensais confusément: cela devait arriver,
cela devait arriver. Puis ce fut la ronde de l’amour: la
peur qui donne la main au désir, la tendresse et la rage, et
cette souffrance brutale que suivait, triomphant, le
plaisir. J’eus la chance – et Cyril la douceur nécessaire –
de le découvrir dès ce jour-là” [10] (tr. 114-115)
Hút thuốc lá, một phong thái rất Sagan. Đây là đoạn tả
Cécile trở về nhà sau giây phút “ghê gớm” đó:
“Je pris une cigarette sur la table, frottai une allumette
sur la boite. Elle s’éteignit. J’en allumai une seconde avec
précaution car il n’y avait pas de vent et seule, ma main
tremblait. Elle s’éteignit aussitôt contre ma cigarette. Je
grognai et en pris une troisième. Et alors, je ne sais
pourquoi, cette allumette prit pour moi une importance
vitale” [11] (tr. 117)
Nhưng rồi cuối cùng, cô gái từ giă người t́nh đầu, dửng
dưng, tỉnh bơ y như một chuyện thường ngày, không có ǵ quan
trọng cả:
“Cyril fit un pas vers moi et posa sa main sur mon bras. Je
le regardai: je ne l’avais jamais aimé. Je l’avais trouvé
bon et attirant; j’avais aimé le plaisir qu’il me donnait;
mais je n’avais pas besoin de lui. J’allais partir, quitter
cette maison, ce garcon et cet été.” [12] (tr. 176)
Đơn giản và thẳng thắn và ṣng phẳng đến thế th́ thôi!
Cùng với Sáng Tạo, cùng với những Camus, Sartre, Françoise
Sagan đă đem một luồng gió mới vào sinh hoạt văn học nghệ
thuật miền Nam Việt Nam kể từ thập niên 1960. Đặc biệt,
Sagan - trực tiếp hay gián tiếp - đă đưa đến sự có mặt của 5
nhà văn nữ thuộc loại độc đáo nhất thời đó là Nhă Ca, Trùng
Dương, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyễn Thị Hoàng (tức Hoàng Đông
Phương) và Túy Hồng với một văn phong mới mẻ, nội dung táo
bạo, chưa hề có trước đó. Ṿng tay học tṛ chẳng hạn, mô tả
mối t́nh giữa một cô giáo và đứa học tṛ, gây nên dư luận
xôn xao một thời. Rồi là Lệ Hằng và đặc biệt Trần Thị Ngh.,
một hiện tượng văn chương độc đáo đầu thập niên 1970 [13] .
Theo Nguyễn Văn Lục, th́ các nhà văn nữ vào thập niên 60 như
Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng, Lệ Hằng, Nguyễn Thị Thụy Vũ
“phảng phất không khí Sagan”. Ông đánh giá: “Cái cảm giác
khi đọc các nhà văn này (trừ Nguyễn Thị Hoàng) là họ c̣n đi
xa hơn các nhà văn nam giới và đi xa hơn cả Sagan trong
những mô tả tính dục. Chẳng hạn Sagan tả những liên hệ tính
dục một cách phơn phớt, không đào sâu, không đậm đặc, “không
mặn”, không sống sượng như Túy Hồng hay Nguyễn Thị Thụy Vũ”
(...) Lối văn của Sagan cụt, hụt hẫng, hững hờ, không màu
mè, diêm dúa. Mục đích của Sagan không phải là mô tả những
scènes t́nh dục cho bằng muốn nhắn gửi: cuộc đời chẳng có ǵ
quan trọng, ngay như chuyện làm t́nh... Luân lư cũng vậy
vậy, đạo đức vậy vậy. Cuộc đời trong một ngày, một tháng,
một năm, có ǵ là lạ. Thản nhiên, vô cảm” [14] .
o0o
Sagan, tên thật là Françoise Quoirez, tục danh
là Kiki, sinh vào ngày 21 tháng 6 năm 1935 ở Cajarc,
một ngôi làng ở miền tây nam Pháp. Bà là người con thứ ba
của Paul Quoirez, một thương gia giàu có. Khi bà lên 15, gia
đ́nh dời về sống ở Paris. Bà mê đọc sách từ hồi c̣n nhỏ; 12
tuổi, viết truyện và làm thơ; 13 tuổi, đọc Nourritures
terrestres của André Gide; 14 tuổi, đọc L’homme révolté của
Albert Camus; 16 tuổi, đọc Marcel Proust, Rimbaud. Về học
hành, bà theo học trường ḍng (couvent des Oiseaux) trước
khi vào học Sorbonne. Hai năm ở Sorbonne, bà chẳng học hành
ǵ nhiều, phần lớn thời gian bà dành cho đi chơi và uống cà
phê và đọc truyện. Biết uống rượu vào năm 15 tuổi. Trong kỳ
thi cuối năm, bà hỏng tú tài khiến gia đ́nh rất phiền muộn.
Để xoa dịu nỗi buồn bực, bà cảm thấy phải “làm một cái ǵ”,
bèn ngồi xuống và bắt đầu viết. Viết xong trong ṿng 32 ngày
(có báo nói là 7 tuần), bà gửi ngay cho nhiều nhà xuất bản,
trong đó có René Julliard. Julliard nhận ngay để xuất bản
với một điều kiện duy nhất: phải có phép của cha mẹ, v́ “cô
bé” Françoise chưa tới 21 tuổi. Bà vội vă về hỏi ư kiến cha.
Ông đồng ư ngay nhưng không cho bà dùng tên gia đ́nh (họ) mà
phải dùng bút hiệu. Dễ thôi! Bà lấy tác phẩm yêu thích nhất
của ḿnh À la recherche du temps perdu của Marcel Proust,
giở ra một trang, thấy đoạn tả quận công Sagan đi ngang trên
chiếc xe ngựa, thế là chọn ngay tên Sagan. Và bắt đầu từ đó,
Françoise Quoirez trở thành Françoise Sagan.
Mùa hè năm 1954 là một mùa hè buồn thảm đối với toàn thể
nước Pháp. Quân đội Pháp sa lầy và cuối cùng thất bại nhục
nhă tại Điện Biên Phủ. Cuộc chiến tranh Đông Dương kết thúc.
Tuổi trẻ Pháp chán nản, tuyệt vọng và mất phương hướng. Cũng
năm đó, về mặt xă hội, người ta ghi nhận hai biến cố quan
trọng, diễn ra ở hai cực hoàn toàn đối nghịch theo kiểu
người ta thường nói: “thiên thần” – “ác quỷ ». Về phía
“thiên thần”, sự xuất hiện của linh mục Pierre mà những hoạt
động của ông đă tượng trưng cho tinh thần bác ái ở mức độ
cao nhất (Roland Barthes đă phân tích rất kỹ h́nh tượng này
trong tác phẩm Mythologies, Paris 1957, phần nói về các
huyền thoại hiện đại). Và về phía “ác quỷ”, th́ là sự xuất
hiện của Sagan, một thiếu nữ nổi loạn, xé rào, vô luân. Tất
nhiên, đó chỉ là một cách nói. Nhưng nh́n ở một khía cạnh
khác,theo Etienne de Montety (Figaro Magazine), th́ nước
Pháp mất Đông Dương lại được bù trừ lại bằng sự xuất hiện
của Sagan, một nhà văn ngoại hạng. Bonjour tristesse - được
ví von như một trái bom nổ chậm đặt tại ngưỡng cửa của Cộng
ḥa văn chương Pháp - ra đời hai năm trước phim Et Dieu créa
la femme của đạo diễn Roger Vadim với một khuôn mặt tài tử
hoàn toàn mới của nước Pháp và của thế giới: cô đào sexy
Brigitte Bardot. Được xem như h́nh tượng của giới trí thức
thập niên 1950, trong không khí của một nước Pháp phục hồi
sau chiến tranh - cùng với Bardot - Sagan đă thổi một luồng
không khí mới mẻ, tươi tắn, đưa trào lưu nghệ thuật Pháp và
toàn thế giới vào một bước chuyển biến đầy bất ngờ thích
thú, tạo nên những chấn động tâm lư, văn chương và xă hội
kéo dài nhiều thập niên về sau.
Triết lư của câu chuyện là: chẳng có ǵ là quan trọng. Một
cô bé 17 tuổi ngủ với trai mà không hề yêu, lại không mang
thai cũng không hề hối hận và chẳng bị trừng phạt. Nói một
cách khác, người ta có thể tự do, không phải trả giá cho
hành động của ḿnh, dù đó là một hành động vô luân.
Françoise Mauriac, một trong những nhà văn được kính trọng
nhất thời bấy giờ, trong một bài báo viết trên trang đầu của
tờ Le Figaro ngay sau khi tác phẩm được phát hành, - không
nhắc đến tên tác phẩm mà cũng không nêu tên tác giả - gọi
tác giả là một “tiểu yêu khả ái” (charmant petit monstre),
cụm từ về sau trở thành một biệt hiệu dành riêng cho Sagan
mà tôi đă mượn tạm để đặt tựa đề cho bài viết này.
o0o
Năm sau, một bản dịch tiếng Anh được phát hành và lập tức
nằm số 1 trên danh sách bestseller của tờ New York Times. Từ
3000 ấn bản (có báo nói là 5000) lần phát hành đầu tiên, vào
đầu năm 1958, sách bán đạt con số kỷ lục là 810 ngàn ấn bản
ở Pháp và hơn một triệu ấn bản ở Hoa Kỳ và được dịch ra 20
thứ tiếng. Lập tức, tác phẩm tạo nên một sự thành công lạ
thường. Nó chiếm được giải “Prix des Critiques”, mang lại
cho Sagan 500 ngàn bảng Anh và đồng thời bị Giáo hoàng lên
án mạnh mẽ, khiến cho một linh mục Công giáo đă phải từ chối
làm phép hôn phối trong lễ cưới lần đầu tiên của bà. Sau
này, Sagan cho rằng đó là một “thành công đầy tai tiếng”
(succès de scandale) khi lần đầu tiên được phát hành ở Pháp.
Bà nói bà cũng không hiểu tại sao mà người ta lại có vẻ ồn
ào, sôi động như thế về tác phẩm của bà, lúc đó. Ba thập
niên sau, nhớ lại, bà hiểu ra rằng sự giận dữ xuất phát từ
mối quan hệ giữa nhân vật nữ, Cécile, và anh bồ của cô ta.
Người ta không thể chấp nhận được chuyện một cô gái 17 hoặc
18 tuổi lại làm t́nh với một đứa con trai trạc tuổi ḿnh mà
chẳng hề bị trừng phạt ǵ cả. Đă thế, cô gái biết về chuyện
t́nh ái lăng nhăng của cha ḿnh, lại c̣n thảo luận chuyện đó
với cha, đề cập đến những đề tài lúc đó vẫn c̣n là điều cấm
kỵ giữa cha mẹ và con cái. “Đối với đại đa số độc giả
(nguyên văn: ba phần tư), tai tiếng của tác phẩm là do chỗ
một nhân vật thiếu nữ trẻ lại ngủ với trai mà không có thai,
lại chẳng cần cưới nhau. Riêng đối với tôi, tai tiếng của
câu chuyện là một nhân vật lại có thể – do vô thức, do ích
kỷ – đưa đến cái chết của một người khác”, Sagan nói.
Thành công bước đầu tạo động lực cho Sagan hăng hái cầm bút
tiếp. Trung b́nh cứ hai năm bà cho ra đời một tác phẩm.
Những tựa sách của Sagan chất đầy trong thư viện, trên các
kệ sách gia đ́nh và nằm trong trí nhớ mọi người. Từ năm 1954
đến 1965, có thêm ba sáng tác mới đuợc nằm trên danh sách
bestseller: Un certain sourire, Aimez-vous Brahms và La
chamade. Cả ba cuốn đều được đóng thành phim và đều là những
phim thành công rực rỡ. Thành công ở truyện, bà nhảy sang
viết kịch và kịch bản phim và tỏ ra có tài viết những đoạn
đối thoại thông minh, dí dỏm. Tuy nhiên, trừ hai vở kịch đầu
tiên, Chateau en Suède (1960) và Les violons parfois (1962)
gây được tiếng vang trong công chúng thưởng ngoạn, nhiều vở
kịch khác ra đời những năm sau đó như La Robe mauve de
Valentine (1963), Bonheur, Impair et passe (1964), Le cheval
évanoui (1966) không mấy thành công. Có lẽ do vậy, với La
garde du coeur, tiểu thuyết xuất bản năm 1968, hầu như bà
trở lại viết truyện dài, chỉ thỉnh thoảng mới viết một vở
kịch.
Nói chung, dù là kịch hay tiểu thuyết, đề tài của bà thường
na ná nhau, đại loại mô tả cuộc sống của giai cấp trưởng giả
nhàn rỗi, chán nản, hoài nghi, cô đơn với những nhân vật đàn
ông, đàn bà luôn luôn đánh vật với số phận của ḿnh và những
thanh thiếu niên buồn bă, hờn dỗi, phung phá, nổi loạn,
thách thức đạo lư xă hội đương thời. Truyện thường xoay
quanh những chuyện t́nh trái khoáy, qua đó, nói lên sự xung
đột giữa hai thế hệ. Chẳng hạn như trong La garde du coeur
(kịch, 1968) - lấy khung cảnh ở Hollywood - kể lại câu
chuyện của một thiếu phụ trung niên, đảm nhiệm việc chăm sóc
cho một thiếu niên đẹp trai rồi đâm ra có cảm t́nh với cậu
ta, tạo nên t́nh cảm phân vân giữa một bên là người t́nh
đồng trang lứa và cậu con trai hoang đàng đáng tuổi con
ḿnh; hay trong Un Orage immobile (truyện, 1983) - lấy khung
cảnh của một ngôi làng nhỏ - kể lại t́nh yêu say đắm của một
phụ nữ góa chồng xinh đẹp say mê một anh chàng công chứng
viên trẻ tuổi. Các nhân vật của bà thường là những người
tuyệt vọng trong quan hệ cá nhân, t́m cách lấp khoảng trống
thời gian bằng cách đi t́m những thú vui nhục cảm, đưa đến
các hành vi vô luân. Nói chung, nội dung truyện cho thấy
tính cách vô mục đích trong cuộc sống hàng ngày. Chúng đưa
ra h́nh ảnh của một nước Pháp hiện đại, trong đó, trách
nhiệm cá nhân chẳng có nghĩa lư ǵ so với lối sống theo mốt
thời thượng, một nguyên tắc mà bà xác định theo đuổi cho đến
cùng. Chúng làm rúng động tầng lớp bảo thủ và thường khiến
các nhà phê b́nh văn chương nhăn mặt, nhưng lại được rất
nhiều người - đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên – thích
thú, ngưỡng mộ, góp phần tạo nên ảnh hưởng đáng kể đến nhiều
nhà văn nữ đàn em sau này.
o0o
Theo Josyane Savigneau (Le monde 25/9/04), khác với nhiều
nhà văn có tính “hiếu đại” (mégalomanie), thường mơ ước sáng
tác được một tác phẩm lớn - với niềm tin rằng đó là một cái
ǵ độc đáo có thể tồn tại măi măi, để lại cho hậu thế - có
vẻ như trong thâm tâm, Sagan không thích thế hoặc không hy
vọng ḿnh sẽ làm được như thế. Trong một cuộc phỏng vấn dành
cho tờ Le Monde” vào năm 1984, bà nói rơ: “Tôi mơ làm nhà
văn khi tôi bắt đầu đọc sách. Chắc chắn điều đó không có ǵ
khác thường. Sau khi hỏng tú tài, tôi chán nản. Lúc đó tôi
học năm đầu ở trường Sorbonne. Tôi bắt đầu viết Bonjour
tristesse trong quán rượu. Viết xong, tôi gởi đến những nhà
xuất bản. Julliard nhận. Rồi là bài báo của Mauriac, rồi là
“Giải Phê B́nh” (Prix des Critiques) và tất cả bắt đầu một
thành công vĩ đại, có cái ǵ không cân xứng. Riêng tôi, tôi
biết tôi thích những câu chuyện tầm thường của tôi. Tôi
chẳng hổ thẹn ǵ, v́ văn chương không đến nỗi dở, mà tôi th́
làm việc đàng hoàng. Tôi lại biết đọc sách. Tôi đă đọc
Proust, đă đọc Stendhal... Những con người như thế quả làm
ḿnh không dám chường mặt ra”, bà nói.
Trả lời cho một cuộc phỏng vấn khác vào năm 2003 với Alain
Louyot (tạp chí L’Express) về viết lách, bà nói: “Tôi có cảm
tưởng là ḿnh vô cùng may mắn trong cuộc đời. Tôi có cái may
mắn thích viết và có thể viết được. Tôi lại có điều kiện
thuận tiện để viết v́ tôi vốn rất lười biếng. Tôi nhớ đă có
lần tôi viết một câu chuyện t́nh trong chiếc Limousin trong
khi đang đi du lịch ở xứ Népal (...) Khi tôi có đề tài ở
trong đầu, tôi có thể viết liền một mạch 12 tiếng đồng hồ.
Và khi viết xong, tôi cảm thấy buồn, cảm thấy như ḿnh trở
nên mồ côi. Tôi chỉ có thể viết khi tôi hoàn toàn hạnh
phúc”. Được hỏi về chuyện thành công trong cuộc đời, bà cho
biết: “Tôi không cho rằng tôi đă thành công ở trong cuộc
đời. Nhưng tôi đă thành công ở chỗ tôi làm cái mà tôi thích:
vừa sống vừa viết”. Cũng theo bà, “Viết là cách duy nhất xác
định tôi chính là tôi. Tôi luôn luôn có cảm tưởng là sẽ đi
đến một cái ǵ bế tắc. Vừa được vừa thua. Vừa tuyệt vọng vừa
phấn khích” (“Sagan et Nous”, Henri Haget, L’Express
27/9/04).
Phát biểu về trào lưu “Tân tiểu thuyết” do các nhà văn
Marguerite Duras, Alain Robbe-Grillet, Michel Butor, Claude
Simon, Phillipe Sollers, và Nathalie Sarraute chủ trương vào
đầu thập niên 1960, bà nói: “Tôi không tin ở kỹ thuật, không
tin ở chuyện người ta có thể làm mới tiểu thuyết. Chính ở
nơi con người mà người ta đào xới (để sáng tác). Y như
chuyện người tiều phu. Thân cây (ông ta muốn đốn) đủ lớn để
ông ta khỏi phải mất th́ giờ để kiểm tra xem cái ŕu ra
sao”, bà phát biểu (Henri Haget).
Bàn về giá trị văn chương các tác phẩm của Sagan, hầu như
mọi người đều đồng ư rằng, trong số hơn 40 tác phẩm của
ḿnh, Bonjour tristesse là tác phẩm thành công nhất và có
giá trị nhất. Không kể văn hào Mauriac, th́ người đầu tiên
ca ngợi Sagan là ông già hàn lâm viện Emile Henriot, người
phụ trách mục sổ tay văn học hàng ngày cho tờ Le Monde. Theo
Laurent Greilsamer (Le Monde, ngày 11/7/04, bài “Bonjour
Sagan”), cuốn sách mỏng chưa tới 200 trang khổ nhỏ mà như
muốn làm bỏng tay ông. Ông thả xuống rồi cầm lên, đọc đi rồi
đọc lại. Ông gọi đó là “một kiệt tác nhỏ bé vô liêm sỉ và
tàn bạo” (un petit chef-d’oeuvre de cynisme et cruauté).
Tính cách vô luân của nó (immoralisme) khiến ông say sưa,
đưa đến một so sánh đáng đồng tiền bát gạo: “Đó là tác phẩm
của một cô bé mới có 18 tuổi, có lẽ là c̣n rất ngây thơ
trong trắng, nhưng đầy tưởng tượng sáng tạo và trong chừng
mức cho phép, ta có thể so sánh toàn bộ cái tác phẩm đầu tay
lạ thường này với một Choderlos de Laclos [1] hung bạo trong
Liaisons dangereuses, với cái ngây thơ cay độc trong Hauts
de Hurlevent (Đỉnh gió hú) của Emily Bronte và với ngọn lửa
băng giá trong Diable au corps của Radiguet”. Và ông kết
luận “Tất cả trở nên nhạt nhẽo sau một tác phẩm như thế” [2]
o0o
Nhà văn nổi tiếng Hoa Kỳ John Updike, viết trong tờ The New
Yorker 20 năm sau khi Bonjour tristesse xuất hiện, ca ngợi
tác phẩm là “sôi động như biển cả” (sparkling sea), “hẻo
lánh như rừng hoang” (secluding woods), “nhanh nhảu tự
nhiên” (animal quickness), cốt truyện th́ rất hiệu quả
(academically efficient), các nhân vật nam, nữ được xây dựng
một cách hoàn hảo. Theo ông th́ tác phẩm được viết bởi niềm
tin hồn nhiên của tác giả trẻ vào tính chất khêu gợi (của
các sự kiện).
Khen như thế chắc cũng hết mức rồi!
Mà chê th́ cũng lắm. Thành công của Bonjour tristesse, theo
một số nhà phê b́nh, nếu gạt ra ngoài những ảnh hưởng tâm lư
và xă hội do thời điểm xuất hiện của tác phẩm, th́ cũng chỉ
là thành công của một tiểu phẩm – petite musique – v́ nó đă
mỏng lại không chứa đựng ư tưởng ǵ lớn lao (pas
grand-chose). Khái niệm «tiểu phẩm» về sau được sử dụng bởi
những người chỉ trích để mỉa mai Bonjour tristesse. Mặt
khác, họ cho rằng Sagan viết quá nhiều, do đó, các tác phẩm
về sau càng ngày càng nhạt nhẽo, mất tính nghiêm túc. Họ
nhiều lần lên tiếng phê phán lối viết dễ dăi cũng như thứ tư
tưởng chuộng khoái lạc quá đáng đến chỗ gần như ngông cuồng
của bà. Điều đó khiến cho các nhà xuất bản lên tiếng khuyến
cáo, hy vọng Sagan viết lách đàng hoàng hơn và cố gắng hơn.
Nhưng bà làm ngơ. Cuối cùng, các nhà xuất bản đành quyết
định ngưng những số tiền ứng trước mà họ vẫn dành cho bà để
viết tác phẩm mới. Cũng dễ hiểu tại sao, tất cả những những
tác phẩm sau này, kể cả kịch, đều không hưởng được những
thành công như Bonjour tristesse. Theo Roger Shattuck - sử
gia và giáo sư Pháp văn tại đại học Boston University -,
tiếng tăm của Sagan “đă suy giảm đáng kể sau chừng 5, 6 cuốn
đầu tiên” v́ bà viết quá nhiều và lập đi lập lại măi những
ǵ ḿnh đă viết và cũng v́ cách thưởng thức văn chương thay
đổi theo thời gian.
Một nhà phê b́nh văn chương khác, Serge Gavronsky - giáo sư
văn chương Pháp tại đại học Bernard -, trong một cuộc phỏng
vấn vào năm 1995, cho rằng những truyện dài đầu tay của
Sagan diễn tả sự nổi loạn và tính ích kỷ của nhiều trong số
những bạn đồng lứa của bà trong các gia đ́nh trưởng giả
Pháp, hoàn toàn phù hợp với khoảng thời gian đó - khoảng
giữa thập niên 1950 – và “gắn chặt” với quá khứ văn chương
Pháp. Nói khác đi, chúng chỉ là những tác phẩm tồn tại một
thời.
Nhưng có lẽ lời kết án Sagan nặng nề nhất nằm trong tác phẩm
biên soạn văn chương căn bản dùng cho học sinh Pháp, “Les
auteurs de la Litérature francaise”, theo đó, thế giới trong
truyện của Sagan là “một thế giới tục lụy, giàu có, nhàn rỗi
và xa hoa; một số nhân vật sống mà không quan tâm đến vật
chất, đó là những kẻ say sưa, yêu nhau bừa băi mà không bị
lên án. Do chuộng những ǵ dở dang, chuộng lối phân tích gay
gắt, cay độc và có tính ái kỷ (narcissism), Sagan măi măi
được xem như là đă làm hư hỏng cả một thế hệ” (New York
Times, 25/9/04).
Tuy viết nhiều và rất nổi tiếng, chỉ trừ giải “Prix des
Critiques” được tặng cho Bonjour tristesse năm 1954 và giải
“Prix de Monaco” cho toàn thể tác phẩm của bà năm 1984,
Sagan không đoạt được giải văn chương nào đáng kể nào của
Pháp và thế giới. Sagan coi thường chuyện đó. Đă có lần, khi
được đề cử trở thành một thành viên của Hàn Lâm Viện Pháp,
bà từ chối thẳng thừng. Bà cho biết, bà đă đọc đủ những cuốn
sách hay để nhận ra sự khác biệt giữa giá trị văn chương của
Bonjour tristesse (mà bà quả quyết là chưa bao giờ đọc lại)
và những bàn tán ầm ĩ quanh tác phẩm. Giám đốc nhà xuất bản
Robert Laffont nhận xét: “Bà không được thừa nhận như một
nhà văn vĩ đại, nhưng điều đó chẳng quan trọng ǵ. Bà viết
những ǵ bà thích và chẳng quan tâm ǵ đến những điều khác,
về các giải thưởng. Bà viết cho chính bà”.
o0o
Văn th́ thế, c̣n người th́ sao?
Người ta thường gọi bà là “écrivain bohémien” (nhà văn phóng
đăng, sống ngoài ṿng cương tỏa). Bản thân bà là một nhân
vật, hơn thế nữa, một siêu nhân vật. Khác với quan niệm cho
rằng nhà văn là loại người im lặng, chịu đựng và viết, Sagan
viết và sống, sống đến tận cùng của cuộc sống. Viết những ǵ
bà sống và sống những ǵ bà viết. Bà tạo ra chúng bằng chữ
nghĩa của riêng bà, không trường phái, không quan tâm đến
những chê, khen này nọ. Khen th́ OK, mà chê cũng OK. Nói
theo kiểu Sagan, “Tôi là một thứ tai nạn kéo dài” (Je suis
un accident qui dure). Và công chúng theo dơi cái “tai nạn
kéo dài” đó rất kỹ, không chán, không mệt. Từ lúc c̣n là một
cô gái 19 tuổi (có lẽ) cho đến khi bà ĺa đời. Quanh đời
sống của bà là những scandale. Scandale tiếp nối scandale.
Nhiều đến nỗi, với Sagan, scandale đâm ra mất hết ư nghĩa
nguyên thủy để chỉ c̣n là những tin thời sự sốt dẻo, lúc nào
cũng lôi cuốn thứ công chúng ṭ ṃ. Áo quần, tai nạn, t́nh
nhân, du lịch, quan hệ, bài bạc, rượu chè, thôi th́ đủ thứ,
bất cứ ǵ dính đến Sagan cũng có thể trở thành những sự kiện
nóng sốt, góp phần nuôi dưỡng các cột báo Pháp hàng ngày.
Với một khuôn mặt gầy, nhỏ, đôi mắt tinh quái nhô ra từ một
mớ tóc cắt ngắn, trong hai thập niên 1950 và 1960, h́nh ảnh
của bà dường như trở thành một thứ dáng dấp cấp tiến của
Paris. Bà cùng bạn bè lập ra nhóm tiền phong “La bande
Sagan”, trong đó có cả ca sĩ Juliette Greco. Bà thường xuyên
xuất hiện ở các quán cà phê, hộp đêm, các quán ăn với những
nhân vật nổi tiếng trong văn giới như Jean Paul Sartre,
Hemingway, Henry Miller và trong chính giới như chính trị
gia trẻ tuổi tả phái Françoise Mitterand, hút thuốc lá hiệu
Gauloises, tay bưng cốc cà phê. Một trong những mốt của
Sagan là đi vào hộp đêm với một người bảo vệ và đi ra với
một người bảo vệ khác, luôn luôn đậu xe thể thao ngay ngoài
cửa nơi đến bất chấp luật lệ giao thông. Để minh họa cho rơ
hơn h́nh ảnh độc đáo của Sagan, h́nh b́a của một trong những
tác phẩm in h́nh bà cỡ tuổi 19, 20 khoác trên người chiếc áo
da dài đứng cạnh cửa của chiếc xe hơi hiệu Jaguar, với đôi
mắt viền đậm.
Xuất phát từ quan niệm riêng mà cũng do sự thúc đẩy bởi tiền
bạc và tiếng tăm, bà lăn xả vào một cuộc sống ồn ào, sôi
động ngay lúc chưa tới tuổi 20: uống rượu thâu đêm suốt
sáng, say mê bài bạc, khoái lái xe thể thao với tốc độ cao.
Một cuộc thăm ḍ dư luận được tiến hành vài năm sau khi
Bonjour tristesse ra đời cho thấy hầu hết mọi người đều cho
rằng Sagan là một ngôi sao điện ảnh hơn là một nhà văn. Bà
đề cập đến cái thú lái xe hết tốc lực trong Avec mon
meilleur souvenir, un recueil de portraits (1984): “Bất cứ
ai mà không cảm thấy hưng phấn với tốc độ th́ chẳng có hưng
phấn để sống. Dù ta có điền cuồng và tuyệt vọng trong t́nh
yêu đến đâu, lúc lái xe với tốc độ 120 dặm một giờ, ta sẽ
thấy bớt đi nhiều. Máu sẽ không c̣n đông cứng quanh trái tim
ta; máu ta đập tối đa trong cơ thể, cho đến tận từng ngón
tay, ngón chân và tṛng mắt, lúc đó chúng là những kẻ canh
giữ quyết định và không mệt mỏi của cuộc đời ta”. Năm 1957,
có lần bà đă bị tai nạn xe hơi, làm nứt xương sọ và nhiều
vết thương khác khi chiếc xe hiệu Aston-Martin lật ngược ở
tại Milly, một thị trấn miến bắc nước Pháp, khiến bà bị hôn
mê suốt cả ba ngày mới tỉnh.
Táo tợn hơn, Sagan yêu đương bừa băi, buông thả ḿnh trong
sinh hoạt t́nh dục gần như vô độ với nhiều bạn t́nh khác
nhau. Một trong những bạn t́nh của Sagan cho biết là Sagan
“muốn thử qua mọi kinh nghiệm ái ân, với hai người, có khi
với ba hay bốn người và cả với phụ nữ”. “Tôi thật may mắn
quá sức bởi v́ khi tôi lớn lên th́ đồng thời thuốc ngừa thai
đă xuất hiện. Khi tôi 18 tuổi, tôi nghĩ ḿnh có thể chết đi
được v́ sợ có thai, nhưng rồi có thuốc ngừa thai và thế là
tôi mặc sức yêu đương thả giàn mà chẳng có hậu quả ǵ, có
đến 30 năm. Sau đó th́ bệnh AIDS mới xuất hiện. Ba mươi năm
này trùng hợp với tuổi trưởng thành của tôi, cái tuổi dành
để vui chơi thỏa thích”, bà phát biểu trong một cuộc phỏng
vấn được thực hiện trước phiên toà xử bà về tội hút xách năm
1993.
Sagan c̣n sử dụng ma túy. Bà hai lần bị bắt v́ hút xách và
tàng trữ thuốc phiện, vào các năm 1990 và 1995, phải đóng
tiền phạt và bị tù treo, khiến có lần, lănh tụ hữu khuynh
Jean Marie Le Pen lên tiếng đ̣i hỏi bà phải bị treo cổ v́
tội chứa chấp và sử dụng ma túy. Năm 2002, bà lại dính líu
đến pháp luật một lần nữa v́ đă không khai thuế về số tiền
hơn 800 ngàn euro kiếm được do một áp phe về dầu hỏa, có
liên quan đến cựu tổng thống Pháp Mitterand, bạn của bà.
Về chuyện gia đ́nh, bà có hai đời chồng. Năm 1958, bà lấy
Guy Schoeller, lớn hơn bà 20 tuổi, ly dị năm 1960. Năm 1962,
tái giá với Robert James Westhoff, một điêu khắc gia Mỹ. Hai
người có một đứa con trai, Denis. Năm sau, 1963, lại ly dị.
Sau đó, bà quyết định sống độc thân cho đến chết. Bà nghĩ ǵ
về t́nh yêu? “Tôi cho rằng t́nh yêu giống như một căn bệnh,
một sự ngộ độc. Thỉnh thoảng, tôi bị ngộ độc chừng 3 hay 4
năm, và rồi không bao giờ nữa. Tôi nghĩ rằng người ta có thể
sống với nhau hạnh phúc hơn là tôi thường tin, nhưng tôi vẫn
không cho rằng nó có thể là măi măi”. C̣n hôn nhân th́ sao?
Là “món măng tây ăn cùng với xà lách trộn, cũng ngon đấy
nhưng chả có ǵ quan trọng”.
o0o
Thập niên 1960, Sagan tuyên bố ḿnh chọn lập trường tả
khuynh, v́ “mốt” hơn là v́ xu hướng chính trị thay đổi.
Thập niên 1970, tóc bà đột nhiên chuyển từ màu nâu sang vàng
hoe, bà càng muốn sống vội hơn nữa. Đam mê đánh bạc mạnh
thêm đến nỗi Bộ trưởng Nội Vụ phải tuyên bố cấm bà không
được vào các ṣng bài. Sau nhiều lần suưt chết vào năm 1978,
bà bị chẩn đoán lầm là bị bệnh ung thư, bà ngưng uống rượu
một thời gian.
Trong thập niên 1990, có khoảng thời gian bà đâm ra sống
đàng hoàng. Bà ủng hộ tổng thống xă hội Mitterand, bàn đến
các vấn đề chính trị nghiêm túc, vận động cải cách chế độ
lao tù, chống kỳ thị và chống chiến tranh. Năm 1994, tác
phẩm Un chagrin de passage viết về một người đàn ông tiếp
cận với nỗi cô đơn sau khi biết ḿnh chỉ c̣n sống có 6 tháng
trên đời, khiến người ta hy vọng bà sẽ trở lại với chuyện
viết lách nghiêm túc. Nhưng thói nào tật đó. Dường như bà
không thoát khỏi số phận của ḿnh. Năm 2001, bà bị ra ṭa v́
tội trốn thuế và bị án một năm tù treo. Bản án khiến cho
những người hâm mộ bà tức giận. Họ phát biểu: “Bà nợ tiền
của Quốc Gia, nhưng nước Pháp c̣n nợ bà nhiều hơn nữa” [3]
Cái nh́n của Sagan về chính bà và đời sống của ḿnh rất
thành thật. Trong Et toute ma sympathie (1993) ghi lại nhiều
suy gẫm của bà, bà nhận xét ḿnh là một “thứ đàn bà kỳ quặc,
trẻ con và rối rắm. Dẫu vậy, bà không bao giờ thốt ra một
lời tỏ ư tiếc về cách sống “vô độ”, không kiềm chế của ḿnh
nhưng thú nhận rằng bà chưa bao giờ thực sự trưởng thành.
“Kết quả là tôi thực sự không hiểu những giá trị của người
lớn và tôi sẽ không bao giờ (muốn) hiểu”. Khác với những
người phụ nữ lớn tuổi, thường chọn h́nh thức thỏa hiệp và an
phận, Sagan luôn luôn giữ cái nh́n của một đứa trẻ con, kinh
ngạc, sắc sảo, bỡ ngỡ, sẵn sàng lao vào phung phá cuộc đời,
khinh miệt những lợi lộc bản thân, chứa đựng một năng lực
bền bỉ trong một thể chất mảnh dẻ khiến ta nghĩ rằng bà sẵn
sàng chống báng lại mọi điều. Có lần, bà nói với một viên
chức tư phá p điều tra rằng “Tôi tin rằng tôi có quyền tự
hủy miễn là tôi không làm hại ai”.
Được yêu cầu kể ra những nhân vật mà bà ngưỡng mộ nhất, bà
trả lời: Nhiều, trong đó có Jean-Paul Sartre (1905-1980). Đó
là người mà bà giao du mật thiết cho đến lúc ông chết. Những
ngày cuối đời, bà thường t́m đến thăm Sartre, lúc này đă mù,
và dẫn ông đi chơi, đi ăn sáng, ăn tối. Trong Avec mon
meilleur souvenir, un recueil de portraits (1984), bà dành
cho triết gia này những gịng chân t́nh nhất: “Nói ngắn gọn,
ông là người đă yêu mến, đă viết, đă chia sẻ, đă cho tất cả
những ǵ gọi là quan trọng mà ông muốn cho, đồng thời, ông
từ khước tất cả những ǵ hào nhoáng mà người ta dành cho ông
(...) Sartre sinh ngày 21/6/1905, tôi sinh ngày 21/6/1935,
nhưng tôi không nghĩ rằng – vả lại, tôi chẳng muốn nghĩ đến
điều đó – tôi không nghĩ rằng tôi sẽ c̣n trải qua đến 30 năm
nữa mà không có ông trên hành tinh này”.
Những năm cuối đời, Sagan dường như không c̣n là Sagan nữa.
Xương sọ vỡ. Bà chịu nhiều lần giải phẫu, ngồi xe lăn, chống
nạng. Nợ nần chồng chất, bà phải bán căn nhà ở Normandie, và
sống qua ngày ở nhà những người bạn. Cuối cùng, bệnh nặng
quá, bạn bè đưa vào nhà thương. Và chết!
Sagan được an táng tại ngôi làng Seuzac, gần Cajarc nơi bà
chào đời, vào ngày 28/9/2004.
o0o
Đấy, Françoise Sagan! Văn chương và đời sống. Dù ghét dù
thương, hẳn mọi người đều nhận rằng bà đă viết và đă sống
một cuộc đời ngay thẳng, minh bạch, không ngụy trang, giấu
giếm.
Dẫu vậy, cho đến cuối đời, người ta vẫn ngờ rằng có một cái
ǵ khác nằm đàng sau con người nổi loạn, ngang tàng, trụy
lạc đó. Cái ǵ? Bí ẩn nào? Tại sao? Nhà phê b́nh văn chương
Pháp Bernard Poitrot-Delpech, khi nhắc đến “bí ẩn Sagan”,
cho ta một câu trả lời giản dị, quá giản dị: “Bí ẩn Sagan?
Đơn giản biết bao, đó chỉ là nghệ thuật trở thành CHÍNH
M̀NH, trên trang giấy trắng, trong cuộc đời” [4] (“Sagan,
l’art d’être SOI”, Le Monde 25/9/04).
Có đúng như thế không? Tùy!
Thôi th́ hăy đọc lại đoạn văn sau đây:
“Seulement quand je suis dans mon lit, à l’aube, avec le
seul bruit des voitures dans Paris, ma mémoire parfois me
trahit: l’été revient et tous ses souvenirs. Anne, Anne! Je
répète ce nom très bas et très longtemps dans le noir.
Quelque chose monte alors en moi que j’accueille par son
nom, les yeux fermés: Bonjour Tristesse.” [5] (tr. 180)
Đó là đoạn cuối trong Bonjour tristesse, một trong những
đoạn văn đă để lại dấu ấn khó phai trong nền văn chương thế
giới. Lần đó, đôi mắt cô bé Sagan chỉ khép nhẹ để chào nỗi
buồn. Lần này, đôi mắt bà Sagan khép chặt vĩnh viễn. Nỗi
buồn Sagan theo Sagan mà ra đi. Nhưng để lại một nỗi buồn
khác: nỗi buồn của chính chúng ta. Notre tristesse!
Xin chào vĩnh biệt, tiểu yêu nữ khả ái Françoise Sagan!
Một lần nữa: BONJOUR TRISTESSE!
(đầu tháng 10/2004)
--------------------------------------------------------------------------------
Tham khảo:
- Bản tin của Reuters, AFP các ngày 24&25/9/04
- Eric Pace, “Françoise Sagan, Who had a Best Seller at 19
With “Bonjour Tristesse” Dies at 69”,
New York Times 25/9/04
- Bernard Lehut, “Adieu Françoise, bonjour tristesse”, Le
Monde 25/9/04
- Josyane Savigneau, “Sartre est né le juin 1905, moi le
juin 1935”, Le Monde 25/9/04
- Bertrand Poirot-Delpech, “Sagan, l’art d’être SOI”, Le
Monde 25/9/04
- Etienne de Montety, “Sagan: charmant petit monstre sacré”,
Figaro Magazine 2/10/04
- Henry Haget, “Sagan et nous”, L’Express 27/9/04
- Alain Louyot, “Sa dernière interview à L’Express”,
L’Express 27/9/04
- Đặng Tiến, “Françoise Sagan, Buồn ơi vĩnh biệt”
- Françoise Sagan, “Bonjour tristesse”, Livre de poche, 1981
- Françoise Sagan (1935-2004),
http://www.kirjasto.sci.fi/sagan.htm
- Adam Bernstein, “Françoise Sagan, Eccentric Writer Of
'Bonjour Tristesse,' Dies at 69”,
Washington Post 27/9/04
- Katherine Pancol, “Sagan, une inoubliable légèreté”,
Paris-Match 29/9/04
- Nguyễn Văn Lục, “20 năm văn học dịch thuật miền Nam
1955-1975”, Hợp Lưu 79, tháng 10&11/2004
---------------------
[1]Pierre Choderlos de Laclos (1741 – 1803), nhà văn Pháp.
Tác phẩm “Liaisons dangereuses” đạt được một thành công
ngoại hạng và là một scandale thời đó.
[2]Tout est fade après un tel livre.
[3]Elle doit de l’argent à l’Etat mais la France lui doit
beaucoup plus.
[4]Le mystère Sagan? Tout simplement l’art d’être SOI, sur
la page blanche, dans la vie.
[5]Đôi khi, chỉ khi tôi lên giường nằm ngủ vào lúc rạng
đông, với tiếng động duy nhất là xe cộ chạy trong thành phố
Paris, th́ trí nhớ phản bội tôi: (tôi tưởng) mùa hè trở lại
với tất cả những kỷ niệm (êm đềm) của nó. Anne, Anne! Tôi
gọi thầm tên Anne nhiều lần, gọi rất lâu trong bóng tối. Có
điều ǵ dâng lên trong ḷng khi tôi đón nhận cái tên này,
mắt tôi khép lại: Buồn ơi, chào mi!
Hết
|