Ngày
xửa ngày xưa... Nói cho oai vậy thôi chứ chỉ đâu chừng 14,
15 năm trước, tôi đã có thời sống trong một cư xá sinh viên.
Lúc ấy tôi 18 tuổi, vừa mới chân ướt chân ráo vào đại học.
Ðịa lý Tokyo thì hoàn toàn mù tịt, thêm vào đó chưa từng
sống một mình bao giờ, nên bố mẹ tôi lo lắng, tìm cách lo
cho tôi vào được cái cư xá ấy. Tất nhiên tài chính cũng là
một lý do chính khác. Chi phí sinh hoạt trong cư xá rẻ hơn
rất nhiều so với việc sống một mình ở Tokyo. Riêng tôi thì
thật tình muốn thuê
một căn phòng trọ sống một mình cho thoải mái, nhưng nghĩ
đến các món tiền nhập học, tiền đóng mỗi học kỳ, thêm với
khoản sinh hoạt phí mà bố mẹ sẽ phải gửi cho hằng tháng, tôi
không thể đòi hỏi như ý mình được.
Cư xá nằm trên cuộc đất cao của phường Bunkyo, có tầm nhìn
thoáng đẹp. Khuôn viên rộng rãi, có tường xi-măng cao bao
quanh. Bước qua cổng thì ngay chính diện là một cây cử [1]
to tướng, xòe cành lá bao sân. Tuổi cây đâu chừng 750 năm,
có khi còn xưa hơn thế nữa. Ðứng ở gốc cây nhìn lên không
thấy nổi khoảng trời bị che khuất bởi đám lá cành chi chít.
Lối đi tráng xi măng uốn vòng qua khỏi thân cây ấy xong lại
thẳng đường cắt ngang khoảng sân giữa rộng rãi. Hai bên sân
giữa là hai tòa nhà lớn bằng xi măng cốt sắt ba tầng song
song đối mặt nhau. Từ những chiếc cửa sổ mở toang suốt ngày
vọng ra tiếng nhạc tuyển từ các đài phát thanh. Màn cửa sổ
phòng nào cũng cùng một màu kem vàng nhạt, là màu ít bị nắng
chói làm phai đi nhất.
Ngay trước lối đi tráng xi măng là tòa nhà hai tầng bản
doanh của ban quản lý cư xá. Tầng trệt có phòng ăn và phòng
tắm rộng lớn, tầng trên có giảng đường và phòng hội họp, có
cả phòng trọ cho khách quý nữa. Bên cạnh tòa nhà bản doanh,
là tòa-nhà-ở thứ ba, cũng ba tầng. Sân giữa rộng lớn, lát cỏ
xanh, có những vòi tưới nước xoay vòng dưới ánh sáng mặt
trời. Phía sau tòa nhà bản doanh là sân bóng đá kiêm bóng
chày, và sáu sân quần vợt. Thiết bị cho một cư xá sinh viên
mà được như thế nầy là vạn toàn rồi.
Chỉ có một vấn đề duy nhất! mặc dù có cho là vấn đề hay
không cũng tùy theo quan điểm của mỗi người. Ðó là việc cư
xá được vận doanh bởi một pháp nhân tài chính gồm chủ yếu là
những nhân vật cực hữu! Tờ chỉ dẫn nhập cư hay bản quy chế
của cư xá ghi: “Hoàn thiện căn bản giáo dục để đào tạo nhân
tài hữu ích cho quốc gia” là tinh thần của việc sáng lập cư
xá. Và nhiều nhà kinh tài tán trợ tinh thần nầy đã góp tiền
của để lập nên... Bề mặt là như thế, nhưng sau lưng thì như
thông lệ, cứ mờ mờ ảo ảo, không ai nắm chắc được là thế nào.
Người thì cho là để trốn thuế đấy, người lại bảo chẳng qua
là trò lừa đảo, dùng danh nghĩa sáng lập cư xá sinh viên để
chiếm đoạt lô đất ấy thôi. Có người còn quy kết đấy chỉ là
hành vi mua danh không hơn không kém. Nhưng mà sự thật thế
nào thì kết cuộc cũng chẳng phải là chuyện gì quan trọng.
Chỉ biết là từ mùa xuân 1967 cho đến mùa thu năm sau, tôi đã
sinh sống trong cái cư xá ấy. Từ góc độ sinh hoạt thường
ngày mà nhìn thì có hữu khuynh hay tả khuynh, ngụy thiện hay
ngụy ác gì gì đi nữa, cũng chẳng khác nhau bao nhiêu.
Một ngày của cư xá bắt đầu bằng lễ thượng kỳ trang nghiêm.
Tất nhiên là có cả quốc ca. Thượng quốc kỳ, tấu quốc ca là
hai thứ bất khả chia lìa mà. Cũng bất khả chia lìa như tin
tức thể thao phải đi kèm với các bản hành khúc. Trụ cờ nằm
ngay giữa sân, từ cửa sở phòng nào trong cư xá cũng nhìn
thấy.
Nhiệm vụ kéo cờ, hạ cờ là trách vụ của tay trưởng khối của
tòa nhà phía đông, trong đó có phòng tôi. Ðó là một người
đàn ông trên dưới 50, cao và có cặp mắt sắc nhọn, tóc cứng
có vài sợi bạc, da cổ ăn nắng ngăm đen có một vết sẹo dài.
Nghe nói nhân vật nầy xuất thân từ Trường Bộ binh Nakano.
Ðứng bên cạnh ông ta là tay trợ thủ sinh viên giúp việc kéo
cờ, trong tư thế sẵn sàng. Về tay sinh viên nầy thì không ai
biết rõ ràng. Tóc cắt gọn, lúc nào cũng mặc đồng phục học
sinh, không ai biết tên gì, mà ở phòng nào cũng chẳng ai
biết. Tôi chưa hề chạm mặt anh ta cả ở phòng ăn lẫn phòng
tắm. Ngay cả chuyện anh ta có thật là sinh viên hay không
cũng không ai biết rõ. Nhưng mà đã mặc đồng phục thì hẳn
cũng là sinh viên rồi, chứ gì. Trái với ông Bộ binh Nakano,
tay nầy lùn mập và da có trắng hơn. Bộ đôi nầy mỗi ngày cứ
đến 6 giờ sáng là thực hành nghi thức thượng kỳ ở sân giữa
của cư xá.
Hồi mới vào ở cư xá, tôi thường ra cửa sổ ngắm quang cảnh
chào cờ nầy. Sáng 6 giờ, cùng với tiếng chuông báo giờ, đã
thấy dáng hai người ở cột cờ. Tay sinh viên mang một hộp dẹt
bằng gỗ ngô đồng, ông Bộ binh Nakano mang máy thâu băng xách
tay hiệu Sony. Ông Bộ binh Nakano đặt máy dưới chân cột cờ.
Tay sinh viên mở hộp gỗ, trong hộp có lá cờ đã xếp gấp cẩn
thận. Tay sinh viên nâng lá cờ lên trao cho ông Bộ binh
Nakano. Ông Bộ binh Nakano cột lá cờ vào dây. Xong, tay sinh
viên nhấn nút trên máy thâu băng. Quốc ca trổi lên. Và quốc
kỳ tuồn tuột leo lên cột cờ. Cứ đến khúc “Cho đến khi sỏi đá
...” là cờ lên đến ngay giữa cột, và đến khúc ”...bám rong
rêu.” [2] là lá cờ vừa chạm đỉnh cột cờ. Lúc đó, cả hai đứng
thẳng người lấy tư thế “Nghiêm” ngẩng đầu nhìn lên lá quốc
kỳ. Gặp ngày đẹp trời mà có thêm chút gió nữa thì thật là
một quang cảnh đáng chiêm ngưỡng.
Ðến chiều tối thì có nghi lễ hạ kỳ, hình thức cũng tương tự
như lễ thượng kỳ buổi sáng sớm, chỉ có thứ tự đảo ngược lại
mà thôi. Lần nầy, quốc kỳ trôi tuồn tuột xuống rồi được gấp
xếp cẩn thận cho vào hộp gỗ. Cờ không bay ban đêm. Tôi không
hiểu tại sao buổi tối lại phải xếp cờ vào hộp. Ban đêm thì
quốc gia vẫn còn nguyên đó chứ. Ban đêm vẫn có rất nhiều
người làm việc. Những người làm việc đêm không được quốc kỳ
gia hộ thì có phải là bất công không? Nhưng mà chuyện nầy
cũng không mấy quan trọng, chẳng ai chú ý đâu. Chắc chỉ có
mình tôi thắc mắc, mà chính tôi cũng chỉ bâng quơ nghĩ đến
thế thôi, chẳng có ý nghĩa gì sâu sắc cả.
Nguyên tắc chia phòng trong cư xá là: sinh viên hai năm đầu
thì hai người mọit phòng, lên năm thứ ba, thứ tư thì được
phòng riêng. Phòng hai người rộng cỡ sáu chiếu [3] xếp hàng
dọc dài và hẹp. Tường trong cùng có cửa sổ khung nhôm. Vật
dụng trong phòng thì cực kỳ đơn giản mà bền chắc. Hai cặp
bàn ghế, giường hai tầng, hai tủ áo, và một kệ đóng vào
tường. Trên kệ thường để máy nghe đài bán dẫn, máy xấy tóc,
bình điện đun nước, lọ cà phê uống liền, soong nồi để nấu mì
ăn liền, và chén bát, ly tách. Tường quét vôi, dán những
trang giữa của tạp chí Playboy. Kệ sách đặt trên bàn học, có
sách giáo khoa chen với vài cuốn tiểu thuyết thời thượng.
Phòng của phái nam nên nói chung là dơ bẩn kinh khiếp. Giỏ
rác thì dưới đáy còn dính vỏ quít đã mốc meo, lon-bia-không
thay gạt-tàn-thuốc thì đóng tàn thuốc đến cả tấc. Cà phê
đóng cặn dính cứng trong cốc. Sàn phòng đầy những giấy bao
mì ăn liền và lon-bia-không lăn lóc tán loạn. Hễ có gió là
bụi từ sàn phòng bốc lên như sương khói. Lại còn mùi hôi
nữa. Áo quần cần giặt nhét vào dưới gầm giường. Chăn màn lâu
ngày không phơi phóng nên mảnh chăn nào cũng hút giữ đầy mồ
hôi và mùi thân thể lưu cữu.
So với tình trạng điển hình ấy thì phòng tôi đúng là sạch sẽ
khác thường. Sàn phòng không có chút bụi, cái gạt tàn thuốc
lúc nào cũng được rửa sạch. Chăn đắp mỗi tuần phơi ít nhất
một lần. Bút chì cắm vào lọ đựng bút cẩn thận. Trên tường
thay vì hình gái đẹp thì treo hình chụp kênh đào ở
Amsterdam. Ðược thế là vì bạn ở chung phòng là người ưa sạch
sẽ đến mức bệnh hoạn. Nó giành hết mọi việc quét dọn, giặt
phơi của cả hai. Tôi khỏi phải động đến một ngón tay. Tôi
vừa uống xong lon bia đặt xuống bàn là ngay lập tức
lon-không bay biến vào sọt rác.
Bạn chung phòng của tôi chọn ngành Ðịa lý học. Buổi sơ kiến,
nó nói:
- “Tôà tôi ... tôi học đị ... địa... địa lý”.
- “Cậu thích địa đồ à?” Tôi hỏi.
- “Ừm, tương lai là vào Viện Ðị... Ðịa... Ðịa lý Quốc gia,
làm đị... địa... địa đồ”.
Thế gian nầy có đủ thứ hoài bão thật. Từ trước đến nay, có
bao giờ tôi thắc mắc do động cơ nào mà người ta chế ra địa
đồ đâu. Ðã thế, một anh chàng cứ động đến hai chữ địa đồ là
lắp ba lắp bắp, mà lại nuôi chí vào làm trong Viện Ðịa lý
Quốc gia, thì quả là trớ trêu thật. Cậu ta nói lắp cũng tùy
chữ, thế nhưng mà hễ gặp chữ “địa đồ” là chắc như bắp, trăm
phần trăm, lần nào cũng nói lắp.
Nó hỏi tôi:
- “Còn cậu chuyên ngành nào?”
Tôi đáp:
- “Kịch nghệ”.
- “Kịch nghệ thì là diễn tuồng đấy phải không?”
- “Bậy nào. Có diễn tuồng gì đâu. Chỉ nghiên cứu kịch bản
thôi. Racine, Ionesco, Shakespeare, vân vân...”
Nó nói ngoài Shakespeare ra mấy cái tên kia nghe lạ hoắc. Mà
chính tôi cũng chẳng rành gì mấy cái tên ấy, thấy có ghi
trên tờ khái yếu của môn học thì biết thế thôi.
Nó lại hỏi:
- “Nhưng mà, chắc cậu thích ngành ấy lắm nhỉ?”
Tôi đáp:
- “Cũng chẳng thích gì lắm”.
Nó ngơ ngẩn. Càng ngơ ngẩn lại càng nói lắp tợn. Tôi có cảm
giác đã làm điều không tốt, liền giải thích:
- “Học ngành gì cũng tốt thôi. Triết Ấn Ðộ hay là Sử Ðông
Dương, ngành nào cũng tốt, đối với tôi. Chỉ là tình cờ mà
chọn kịch nghệ đấy thôi”.
- “Khó hiểu thật”. Nó nói. “Tô... tôi... tôi ấy à, thích
đị... địa... địa đồ mới chọn ngành ấy đấy. Muốn thế nên mới
lên tận Tokyo nầy để vào đại học, bắt bố mẹ chi cấp mọi thứ.
Thế mà cậu thì lại khác...”
Ðiều nó nói rất phải, nên tôi dẹp chuyện giải thích thêm.
Hai đứa bắt thăm xem ai nằm giường tầng trên hay tầng dưới.
Nó được tầng trên. Nó hay đóng bộ cánh quần đen, áo sơ mi
trắng. Cao, tóc cắt sát, xương má gồ lên. Ði học thì mặc
đồng phục học sinh. Giày và cặp sách đen tuyền. Trông nó có
vẻ là một sinh viên khuynh hữu, mà chung quanh lắm người
cũng tưởng thế, nhưng thật ra, nó hoàn toàn trăm phần trăm
chẳng lý gì đến chính trị. Ăn mặc như thế là vì nó lười
chuyện chọn áo quần, vậy thôi. Quan tâm của anh chàng thu
hẹp trong phạm vi những sự kiện địa lý, như là biến đổi của
đường bờ biển hay là chuyện hoàn thành một đường hầm xe lửa
mới. Tôi mà lỡ mồm động đến mấy chuyện đó là nó vừa cà lăm
vừa thao thao bất tuyệt, từ giờ nầy sang giờ khác, cho đến
khi tôi hét lên, hay ngủ thiếp đi, nó mới ngưng.
Mỗi buổi sáng, cứ đúng 6 giờ là nó thức dậy, quốc ca thay
cho đồng hồ báo thức. Xem thế thì chuyện thượng kỳ mỗi sáng
cũng không đến nỗi vô ích. Thế rồi nó thay quần áo, ra nhà
vệ sinh đánh răng rửa mặt. Mà chuyện đánh răng rửa mặt của
nó rất là mất thì giờ. Ðến nỗi tưởng như nó lấy từng cái
răng ra chùi rửa cẩn thận rồi mới nhét trở lại không bằng.
Về lại phòng là vuốt cho thẳng cái khăn mặt, treo thẳng thớm
lên móc áo. Bót đánh răng và xà phòng trả ngay ngắn vào ngăn
kéo. Xong rồi nó mở máy nghe đài, bắt đầu tập thể dục theo
đài.
Tôi hay thức khuya, lúc đã ngủ thì ngủ rất say. Giờ nó bắt
đầu tập thể dục theo đài thì lắm lúc tôi vẫn còn mê man ngủ.
Thế nhưng, đến phần nhảy tại chỗ của nó thì tôi phải thức
dựng đứng lên ngay. Chứ mỗi cú nhảy của nó, mà tay nầy lại
nhảy rất cao, làm cái đầu của tôi cũng phải nhảy theo, lên
xuống có đến 5 phân trên mặt gối, hỏi làm sao mà ngủ cho
được. Chịu đựng đến ngày thứ tư, tôi bảo nó:
- “Xin cậu. Thể dục theo đài thì làm trên sân thượng có được
không? Chứ cậu làm ở đây thì tôi không làm sao ngủ được”.
- “Ấy, đâu có được”. Nó trả lời. “Làm trên sân thượng thì
tụi ở tầng ba kêu ca. Còn ở đây tầng trệt, dưới đâu có ai”.
- “Vậy cậu ra sân giữa mà tập”.
- “Ra đấy không được đâu. Dù thế nào, cũng không có đài bán
dẫn để có nhạc. Mà không có nhạc thì không thể tập-theo-đài
tốt được”.
Ðúng là nó chỉ có máy nghe đài chạy điện nhà, tôi thì có đài
bán dẫn nhưng lại chỉ nghe được các băng tần FM thôi, không
có nhạc cho thể dục theo đài.
- “Thôi thì cậu vặn nhạc nhỏ lại, và bỏ cái khoản nhảy tại
chỗ hộ tôi tí. Chứ cậu nhảy thì cả người tôi cũng nhảy tưng
tưng theo ấy. Chịu phiền tí nhé?”
- “Nhảy tại chỗ gì?” Nó ngạc nhiên. “Nhả... nhảy... nhảy gì
kia?”
- “Ðấy, có đoạn cậu nhảy tưng tưng lên ấy mà”.
- “Nào có đâu”.
Tôi cảm thấy nhức đầu, thôi thì mặc nó muốn làm gì thì làm.
Nhưng mà đã lỡ nói ra rồi, đến đây mà rút lui thì cũng không
được, nên tôi vừa hát bài đệm thể thao thứ nhất của đài phát
thanh quốc gia NHK, vừa nhảy tưng tưng trên sàn phòng.
- “Ðây, đoạn nầy nầy. Có đấy chứ sao không”.
- “À, có đoạn nhả... nhảy... nhảy thật đấy nhỉ. Có để ý
đâu”.
- “Thì đấy”. Tôi năn nỉ. “Chỉ đoạn ấy thì cậu bỏ hộ cho. Các
đoạn khác tôi gắng chịu được”.
- “Không được”. Nó nói thẳng thừng. “Ðâu có đoạn nào mà bỏ
được. Mười năm liên tiếp tập thế rồi, cứ bắt đầu là không
cần suy nghĩ... nghĩ... nghĩ gì cũng làm đủ một chuỗi các
động tác ấy. Bỏ một đoạn là tịt ngay, không sao làm hế...
hết... hết được”.
- “Vậy cậu đừng tập gì cả là xong”.
- “Nói thế không tố... tốt... tốt đâu. Sao lại ra lệnh cho
người ta”.
- “Nầy, tôi có ra lệnh gì đâu. Tôi chỉ muốn được ngủ ít nhất
là đến 8 giờ. Mà cho dù có phải thức dậy sớm hơn thì cũng
muốn tự mình thức dậy tự nhiên thôi, chứ không muốn bị đánh
thức như kiểu súng lệnh chạy đua giành bánh ấy. Chỉ có thế
thôi. Cậu hiểu cho tôi không?”
- “Chừng ấy thì hiểu chứ”.
- “Vậy, cậu nghĩ thế nào?”
- “Thế thì, cậu cũng dậy tập thể dục theo đài với tớ là tốt
nhất chứ gì”.
Tôi chán nản, ngủ lại. Và hắn sau đó vẫn tiếp tục thể dục
theo đài, ngày nào như ngày nấy.
*
Tôi kể chuyện bạn cùng phòng và cách tập thể dục theo đài
của nó cho em nghe, em cười khúc khích. Không định kể chuyện
cười, mà rồi kết cuộc tôi cũng cười theo. Ðã lâu lắm tôi mới
được thấy lại nét em cười, dù chỉ trong giây phút rồi tan
biến đi mất.
Tôi và em rời tàu điện ở ga Yotsuya, bước đi trên con đê ven
đường rầy tàu điện, về hướng Ichigaya. Một buổi chiều Chủ
Nhật của tháng Năm. Cơn mưa buổi sáng đã dứt đâu khoảng
trưa, những đám mây màu tro u ám, trĩu thấp nặng nề, đã bị
luồng gió Nam thổi bay đi mất. Ðám lá anh đào màu xanh đậm
đà theo gió xao động lấp lánh. Ánh nắng đã bắt đầu có mùi
hương tinh khôi của những ngày đầu mùa hạ. Những người đi
ngược chiều phần nhiều đã cởi áo khoác, áo len, vắt lên vai.
Sân quần vợt có những thanh niên chỉ mặc quần đùi ngắn, quơ
những chiếc vợt vành kim loại lấp lánh phản chiếu mặt trời
chiều.
Chỉ có hai bà phước đang ngồi cạnh nhau trên băng ghế là còn
mặc áo chùng mùa đông màu đen phủ kín. Vậy mà cả hai như
đang vui say câu chuyện, đến tưởng chừng mùa hạ vẫn còn ở
nơi nào xa lắm.
Ði bộ đâu 15 phút là mồ hôi đã rịn ra khắp lưng áo. Tôi cởi
bớt chiếc áo sơ-mi bằng vải dày, chỉ còn mặc áo lót. Em cuốn
tay áo của chiếc áo thể thao màu tro nhạt lên đến khủy tay.
Chiếc áo qua nhiều lần giặt đã phai nhạt đi, tôi tưởng chừng
đã thấy em mặc từ kiếp nào xa lắm. Nhưng chỉ có cảm giác thế
thôi. Dạo nầy tôi không nhớ ra được tinh tường nhiều sự
việc; tất cả mọi chuyện đều như xảy ra từ kiếp nào xa lắc.
- “Sống chung với người khác có vui không anh?” Em hỏi.
- “Nào biết đâu. Ðã sống chung thế được bao lâu đâu mà
biết”.
Em dừng chân lại trước vòi nước uống, uống một ngụm nhỏ, rồi
lấy khăn tay trong túi quần ra lau miệng. Em cúi xuống cột
lại dây giầy quần vợt.
- “Em có sống như thế được không nhỉ?”
- “Sống chung với người khác ấy à?”
- “Vâng”. Em nói.
- “Thấy vậy chứ cũng có nhiều chuyện phiền phức hơn mình
tưởng đấy. Chẳng hạn như các quy luật nhỏ nhặt, hay chuyện
thể dục theo đài ấy”.
- “Ừ nhỉ”. Em nói, suy nghĩ một lúc rồi nhìn sâu chăm bẳm
vào mắt tôi. Mắt em trong suốt một cách dị thường. Tôi lạ
lùng sao từ lâu không để ý mắt em trong suốt đến như thế.
Cảm giác trong suốt dị kỳ, như nhìn vào khoảng không.
- “Vậy mà, đôi khi em nghĩ cần phải sống chung như thế.
Nghĩa là...”
Em nói, mắt vẫn nhìn sâu vào mắt tôi, môi cắn nhẹ, rồi em
nhìn xuống.
- “Em cũng chẳng hiểu nữa. Mà thôi vậy ...”
Ðối thoại ngưng ở đấy. Em lại tiếp tục bước đi.
Ðã nửa năm rồi tôi không gặp em. Trong vòng nửa năm ấy, em
đã gầy đi trông thấy. Ðôi má phính đặc trưng ngày nào đã
biến đâu mất, chiếc cổ tròn cũng đã thon nhỏ hơn. Thế nhưng
em hoàn toàn không có vẻ xương xẩu gì cả. Tôi lại thấy em
xinh đẹp hơn bao giờ. Ðịnh nói với em điều ấy, nhưng rồi
chẳng biết nói như thế nào, đành thôi.
Hai đứa đến Yotsuya nầy cũng chẳng phải vì có mục đích gì,
chỉ tình cờ gặp nhau trong tàu điện trên tuyến đường trung
ương. Cả tôi lẫn em đều không có dự định gì. Em bảo xuống xe
đi, tôi cũng nghe theo. Xuống rồi mới biết là ga Yotsuya.
Còn lại hai người mà thật cũng chẳng có chuyện gì để nói.
Tôi không hiểu em bảo tôi cùng xuống ga nầy vì lý do gì.
Ngay từ đầu, đã không có chuyện gì cần nói với nhau.
Rời ga xong, em chẳng nói gì, xăm xăm bước đi. Tôi cũng bước
như đuổi theo em. Giữa em và tôi vẫn có khoảng cách chừng
một thước. Tôi bước đi vừa nhìn lưng em. Rồi thỉnh thoảng em
ngoái đầu lại nói, và tôi có lúc trả lời được, có lúc không
biết trả lời sao. Cũng có lúc em nói gì tôi không nghe rõ.
Nhưng em có vẻ không để ý gì đến điều ấy. Nói điều muốn nói
xong, em quay đầu lại phía trước mà tiếp tục bước tới.
Hai đứa rẽ phải ở khoảng Iidabashi, rời khỏi hào, vượt qua
ngã tư Jimbocho, leo dốc Ochanomizu, xuyên qua khu Hongo.
Rồi đi dọc theo đường tàu điện lộ thiên, đến tận Komagome.
Khoảng cách khá xa. Ðến Komagome thì trời đã tắt nắng.
- “Ðây là đâu anh?”
- “Komagome đấy”. Tôi đáp. “Ði một vòng xa quá”.
- “Ðến đây làm gì thế?”
- “Em dẫn đi cơ mà. Anh chỉ đi theo đấy thôi”.
Hai đứa vào quán mì Nhật cạnh ga, ăn nhẹ. Từ lúc gọi mì cho
đến khi ăn xong không nói một lời nào. Tôi thì đi bộ mệt,
thân thể gần như rã ra, còn em có vẻ suy nghĩ gì lung lắm.
- “Em có sức gớm nhỉ?” Tôi nói sau khi ăn mì xong.
- “Ngạc nhiên lắm hả?”
- “Ừ”.
- “Xem thế nầy chứ hồi trung học đã là tuyển thủ chạy đường
dài đấy nhé. Thêm vào đấy, bố em thích leo núi, nên hồi nhỏ,
cứ Chủ Nhật là đi leo núi. Cho nên bây giờ vẫn lưng vững
chân mạnh đấy chứ”.
- “Nhìn thì chả thấy thế đâu”.
Em cười.
- “Thôi, để anh đưa về nhé?”
- “Không phiền anh đâu, em về một mình được mà. Khỏi phải
lo”.
- “Anh hoàn toàn không bận gì cả đâu”.
- “Thật tình không sao đâu, em về một mình quen rồi”.
Thật ra, em nói cho như thế, tôi cũng nhẹ nhõm một phần. Nhà
trọ của em, phải đi tàu điện hơn một tiếng đồng hồ mới đến
nơi, mà suốt quãng đường ấy, hai đứa không có chuyện gì để
nói, cứ im lặng tựa lưng vào ghế như thế, cũng chán. Kết
cuộc, em về một mình, và tôi chịu phần trả tiền bữa ăn. Lúc
sắp chia tay, em nói:
- “Anh nầy, nếu tiện... nếu không có gì phiền, có thể gặp
nhau nữa không? Tất nhiên, em vẫn biết là không có quyền gì
để hỏi như thế cả”.
- “Có gì mà phải nói đến chuyện quyền?” Tôi ngạc nhiên.
Em thoáng đỏ mặt, có lẽ vì thấy tôi ngạc nhiên.
- “Khó nói quá”. Em phân trần. Em bối rối cuốn hai tay áo
lên đến khủy tay xong lại cuốn ngược trở lại. Ánh đèn nhuộm
những lông măng trên cánh tay em màu vàng óng thật đẹp.
- “Em không định nói là quyền. Ðịnh nói một lời gì khác
kia”.
Em tựa khủy tay lên bàn, nhắm đôi mắt lại tìm lời nói cho
đúng, nhưng lời nói ấy không thấy đâu.
- “Không sao cả đâu”. Tôi nói.
- “Không làm sao nói cho đúng ý mình được. Dạo nầy em cứ bị
thế mãi. Lúc nào có chuyện định nói, cũng chỉ có những lời
nói trật chìa thốt ra, lúc thì sai, lúc thì hoàn toàn ngược
lại với điều muốn nói. Rồi vì muốn đính chính những lời ấy,
lại nghĩ ra những lời sai hỏng khác, cứ xáo trộn cả lên mà
nói trật chìa hết. Cảm thấy như thân thể tách ra làm hai,
nửa nầy đuổi bắt nửa kia. Như ngay chính giữa có cây cột
thật to, hai nửa ấy cứ đuổi nhau chạy vòng vòng quanh chiếc
cột. Lời nói đúng ý mình thì lại nằm trong nửa kia, còn em
trong nửa nầy cứ phải chạy đuổi theo mà không bao giờ bắt
kịp”.
Em đặt cả hai bàn tay xuống bàn, nhìn tôi đăm đăm, nói tiếp:
- “Ðiều ấy, anh hiểu được không?”
- “Cảm giác ấy không ít thì nhiều ai cũng có đấy”. Tôi nói.
“Ai cũng có lúc không sao diễn tả được ý mình, nên thấp
thỏm, thế thôi”.
Nghe tôi nói thế, em có vẻ thất vọng.
- “Ðiều đó khác chứ”. Nhưng em chỉ nói thế, không thêm gì
hơn.
Tôi nói:
- “Gặp nhau cũng đâu có sao. Bề nào anh cũng đang rảnh.
Không làm gì cả thì chi bằng đi bộ với nhau như thế nầy lại
tốt cho thân thể hơn”.
Hai đứa chia tay ở ga. Tôi nói:
- “Em về”. Em cũng nói em về.
*
Lần đầu tiên tôi gặp em là khoảng mùa xuân năm tôi học năm
thứ hai trung học. Em cùng tuổi với tôi, và đang học trường
Dòng con gái dành cho con nhà gia giáo. Giới thiệu em cho
tôi là đứa bạn thân của tôi. Hắn và em là người yêu của
nhau. Hai người là bạn chơi với nhau từ hồi còn bé, từ Tiểu
học. Hai nhà cách nhau chừng trăm thước. Cũng giống như
nhiều cặp bạn bè từ thời thơ ấu, hai người không có nguyện
vọng muốn gặp riêng chỉ hai người với nhau, mà thường qua
nhà nhau ăn uống vui đùa chung với cả gia đình. Tôi có vài
lần cũng đi chơi hẹn hò hai cặp cùng với họ, nhưng lần nào
cặp của tôi cũng không đạt đến kết quả luyến ái nào, nên
cuối cùng, tôi cùng hắn và em trở thành một bộ ba đi chơi
với nhau. Mà như thế lại thoải mái nhất. Vai trò của tôi là
khách, hắn là chủ, và em vừa đóng vai phụ tá, vừa đóng vai
chính.
Hắn đóng vai trò chủ chốt rất tài tình. Có khuynh hướng châm
chọc người khác có hơi thẳng thừng, nhưng bản tính vốn tử tế
và công bình. Hắn châm chọc cả tôi lẫn em bằng những lời bỡn
cợt không phân biệt bạn hay người yêu. Thấy bên nào yên lặng
là hắn lại gợi chuyện rất khéo để bên ấy tham gia vào câu
chuyện chung. Hắn có khả năng nắm bắt tình hình tức khắc và
đối ứng thích đáng. Hắn lại có cái tài ít người có là nhìn
thấy được nhiều điểm lý thú ngay trong những câu chuyện nghe
qua chẳng thú vị gì của người đối thoại. Thế nên nói chuyện
với hắn, tôi nhiều lúc cảm thấy như mình cũng đang sống một
đời lý thú.
Nhưng một khi hắn rời đi là tôi và em chẳng còn biết nói
chuyện gì với nhau. Hầu như giữa tôi và em không có câu
chuyện gì chung. Những lúc như thế, tôi và em thường chẳng
trao đổi lời nào, chỉ mân mê cái gạt tàn thuốc trên bàn, hay
nhấm nháp ly nước, chờ hắn trở lại. Có mặt hắn thì lại
chuyện trò rôm rả như trước.
Ba tháng sau đám tang hắn, tôi và em chỉ gặp nhau một lần.
Có chút chuyện cần nên hẹn gặp nhau ở quán trà. Chuyện cần
ấy giải quyết xong thì rồi chẳng có chuyện gì để nói với
nhau. Sau đó, tôi có thử gọi điện thoại cho em vài lần,
nhưng lần nào câu chuyện cũng chấm dứt nửa chừng. Thêm vào
đó, cách nói chuyện của em khiến tôi cảm thấy vương vướng
góc cạnh gì đấy. Có vẻ như em giận tôi vì một lẽ gì đấy mà
tôi không hiểu. Rồi tôi và em xa nhau.
Có thể em giận tôi vì người cuối cùng gặp được hắn lại là
tôi mà không phải là em. Nói thế có lẽ không nên, nhưng mà
tôi có thể thông cảm tâm tình ấy. Tôi muốn hiểu cho em, nếu
được. Nhưng mà kết cuộc chuyện đã xảy ra như thế thì đâu có
thể làm gì được nữa. Chuyện một khi đã xảy ra rồi thì cố
gắng cách mấy đi nữa, cũng đâu có thể xóa đi làm lại được.
o0o
Buổi chiều tháng Năm ấy, tôi và hắn trên đường từ trường về,
nói cho đúng thì không phải học xong, mà là bỏ buổi học nửa
chừng, ghé quán bi-da chơi khoảng bốn ván. Tôi chỉ thắng ván
đầu, còn thì hắn tóm gọn cả ba ván sau, nên đúng như giao
hẹn, tôi đã trả trọn tiền bàn.
Ðêm ấy, hắn chết trong nhà xe. Ống cao su nối vào ống thải
khí của chiếc xe N360 [4], dẫn vào trong xe đã đóng cửa kín
mít, và băng nhựa to bản đã bít kín các khe hở cửa sổ, cứ
như thế mà cho nổ máy xe. Không hiểu bao lâu sau thì hắn
chết, chỉ biết bố mẹ hắn đi thăm người bà con bị bệnh trở về
thì thấy hắn đã chết rồi. Máy nghe đài trong xe vẫn mở suốt.
Kẹp vào que gạt nước mưa trên kính xe là tấm biên nhận của
cây xăng.
Di thư đã không có mà động cơ tự sát cũng không ai hiểu. Là
người đã gặp hắn lần cuối cùng, tôi bị cảnh sát thẩm vấn.
Tôi khai là hoàn toàn không thấy có triệu chứng gì khác
thường ở hắn, vẫn y như mọi ngày tôi gặp hắn. Có ai định tự
sát mà lại thắng liên tiếp ba ván bi-da đâu. Cảnh sát có vẻ
có ấn tượng không mấy tốt về cả hắn lẫn tôi. Chắc họ nghĩ
những đứa mới trung học mà đã trốn học đi đánh bi-da, thì có
tự sát cũng không có gì lạ. Chỉ có một mảnh tin nhỏ trên
báo, chấm dứt sự kiện. Chiếc N360 màu đỏ của hắn đã xử trí
xong. Bàn học của hắn trong lớp được chưng hoa trắng một
thời gian.
Lúc vừa xong trung học, lên Tokyo, tôi chỉ tâm niệm một điều
duy nhất. Ðó là việc gì cũng vậy, gắng không suy nghĩ thâm
sâu quá. Tôi dặn lòng là phải quên quách đi cái bàn bi-da
phủ vải nhung màu lục, chiếc N360 màu đỏ, cánh hoa trắng
trên bàn học... Cả cục chặn giấy nặng trịch đặt trên bàn ở
phòng tra vấn của cảnh sát. Tất cả mọi thứ, phải quên hết
đi. Lúc đầu thấy có vẻ thuận chiều như ý định ấy thật. Thế
nhưng trong trí tôi vẫn có cái gì đấy, lởn vởn mơ hồ như
không khí. Theo với thời gian, không khí đó bắt đầu kết tụ
rõ rệt dần, thành một thứ hình dạng đơn giản, mà tôi có thể
dùng lời nói để phô diễn như thế nầy: “Tử không phải là đối
cực của Sinh, mà tồn tại như một phần của Sinh”. Nói quách
ra thành lời như thế thì hóa ra có vẻ tầm thường đến phát
chán. Hoàn toàn tổng quát. Nhưng mà lúc bấy giờ, tôi đã cảm
nhận điều đó, không phải bằng lời nói như thế, mà như một
khối không khí bên trong thân thể mình. Cái chặn giấy cũng
vậy mà bốn trái banh bi-da sắp hàng trên bàn bi-da cũng vậy,
Tử đã tồn tại sẵn bên trong. Và mọi người giống như đã hấp
thụ Tử như hít một hạt bụi li ti vào sẵn trong phổi mình mà
tiếp tục sống.
Từ trước, tôi nhận thức Tử như một tồn tại độc lập, phân ly
khỏi mọi thứ gì khác trên đời. Nói rõ hơn: Tử một ngày nào
đó chắc chắn sẽ tóm được ta. Nhưng thế cũng có nghĩa ngược
lại là cho đến khi Tử tóm được ta, thì ta vẫn chưa bị Tử
tóm. Ðối với tôi, như thế là tư duy vô cùng nghiêm trang và
luận lý. Sinh hiện hữu ở phía bên nầy, còn Tử hiện hữu ở
phía bên kia.
Nhưng cái đêm bạn tôi chết mất đi đã vạch một lằn ranh, từ
đó tôi không còn có thể nhận thức Tử một cách đơn thuần như
thế nữa. Tử không phải là đối cực của Sinh. Tử đã có sẵn
trong Sinh rồi. Cố gắng cách mấy đi nữa, tôi cũng không thể
quên được điều ấy. Bởi vì cái đêm tháng Năm tôi 17 tuổi đó,
Tử đã bắt đi bạn tôi mà cũng vừa bắt được cả tôi nữa.
Tôi nhận thức rõ ràng như thế, đồng thời, tôi vừa tránh
không suy nghĩ thâm sâu về điều ấy. Mà làm thế là chuyện vô
cùng khó khăn cho tôi, lúc ấy mới 18 tuổi, còn non dại quá
để có thể truy cứu đến trọng tâm của chuyện đời.
o0o
Từ ngày ấy, tôi vẫn tiếp tục hẹn hò với em mỗi tháng một hai
lần. Nói hẹn hò cũng tạm đúng, mà tôi cũng không tìm ra chữ
nào thích đáng hơn.
Dạo ấy, em theo học một đại học dành cho nữ sinh ở ngoại vi
Tokyo, một đại học xinh xắn và trang nhã nổi tiếng. Từ nhà
trọ của em đi bộ đến trường không đến 10 phút. Trên đường có
lạch nước thật đẹp, thỉnh thoảng em vẫn dạo quanh đấy. Có vẻ
em không có bạn bè nào. Em vẫn nói nhỏ giọt như trước. Mà
tôi cũng ít nói vì thật cũng chẳng có gì cần nói. Gặp nhau,
hai đứa cũng chỉ im lặng bước đi. Nhưng không vì thế mà hoàn
toàn không có tiến triển gì cả đâu. Khoảng gần hết kỳ nghỉ
hè thì em dần dần đã bước sóng đôi bên cạnh tôi một cách tự
nhiên. Vai bên vai, lên dốc xuống dốc, qua cầu qua đường,
hai đứa đã đi bên nhau rất lâu. Cứ đi bên nhau như thế chẳng
cần phải đến đâu hay làm gì. Ði một hồi, lại ghé vào quán
cà-phê, uống xong lại tiếp tục đi. Chỉ có thời tiết là thay
đổi, mùa nầy tiếp mùa khác trôi qua như thay phim dương bản.
Mùa thu đến, sân giữa của cư xá phủ đầy những lá khô của cây
cử. Áo len mặc vào đã có hương của mùa mới. Tôi cũng mới mua
một đôi giày da Thụy Ðiển.
Mùa thu qua, khi gió lạnh bắt đầu thổi, thỉnh thoảng em tựa
người vào cánh tay tôi. Xuyên qua lớp vải dày của chiếc áo
khoác có mũ, tôi cảm nhận được nhịp thở của em. Nhưng chỉ có
thế thôi. Tôi vẫn đút hai tay vào túi áo khoác, bước đi như
mọi khi. Cả tôi lẫn em đều đi giày đế cao su nên thường
không nghe tiếng chân bước. Chỉ khi nào dẫm lên lá ngô đồng
khô nhăn nhúm mới nghe có tiếng chân khô khốc. Có vẻ em
không tựa lên cánh tay tôi, mà em đang tựa lên cánh tay ai
đó. Em không tìm hơi ấm của tôi, mà em đang tìm hơi ấm của
ai đó. Không biết có đúng như thế không, nhưng quả thật tôi
đã có cảm giác như thế.
Tôi càng thấy đôi mắt em trong suốt hơn trước, cái vẻ trong
suốt chơi vơi mãi như thế. Ðôi lúc dưng không em nhìn sâu
đăm đăm vào mắt tôi, làm dấy lên trong lòng tôi một nỗi buồn
man mác.
Tụi bạn trong cư xá hễ thấy tôi ra đi mỗi khi nhận được điện
thoại của em ngày Chủ Nhật, là trêu chọc. Không trách được
tụi nó nghĩ là tôi có người yêu. Mà tôi cũng mặc kệ tụi nó,
vì không sao giải thích được, mà cũng chẳng có lý do gì phải
giải thích. Từ chỗ hẹn hò trở về là thế nào cũng bị một tên
trong bọn hỏi chuyện làm tình có “đã” không. Và lần nào tôi
cũng đáp: cũng tàm tạm.
Cứ thế, tuổi 18 của tôi cũng qua đi. Mặt trời lên, mặt trời
lặn, quốc kỳ lên, quốc kỳ xuống. Chủ Nhật thì hẹn hò với
người yêu của bạn mình đã chết. Tôi hoàn toàn chẳng biết
mình đang làm gì lúc nầy, và sẽ làm gì từ đây về sau. Ở lớp
học, tôi đọc Claudel, đọc Racine, đọc Eisenstein, thấy họ
viết câu văn nào ra câu văn ấy. Nhưng cũng chỉ học có thế
thôi. Tôi hầu như không có bạn bè nào trong lớp học. Giao tế
với tụi bạn trong cư xá thì vẫn không có gì thay đổi. Thấy
tôi như lúc nào cũng đọc sách, tụi nó nghĩ tôi định sẽ là
tiểu thuyết gia, nhưng thật tình tôi chẳng muốn thành tiểu
thuyết gia, mà cũng chẳng muốn thành gì cả.
Tâm tình ấy, tôi đã lắm lần định tỏ bày với em. Tôi mường
tượng rằng em thì có thể hiểu đúng được điều tôi nghĩ. Nhưng
rồi tôi cũng không nói được với em. Như có lần em đã nói,
lúc nào tôi cố tìm cho ra lời chính xác để diễn đạt ý mình,
thì lời chính xác ấy cũng rời xa khỏi tầm tay với của tôi mà
chìm tuốt xuống hố tối thăm thẳm.
Cứ đến tối Thứ Bảy là tôi lại ngồi trên ghế ở hành lang cư
xá, chờ điện thoại của em. Có khi suốt ba tuần không có điện
thoại, cũng có khi có điện thoại hai tuần liên tiếp. Nhưng
dù có hay không có, mỗi tuần cứ đến tối Thứ Bảy là tôi lại
ngồi trên ghế ở hành lang cư xá, chờ điện thoại của em.
Tối Thứ Bảy, phần lớn sinh viên trong cư xá đều đi chơi cả
rồi nên hành lang thường im vắng. Tôi ngồi nhìn đăm đăm vào
những hạt ánh sáng nổi lên trong cái không gian trầm mặc ấy,
cố gắng xác định lòng mình. Người ta, ai cũng tìm kiếm cái
gì đấy từ người nào đấy. Hẳn thế, nhưng từ đó trở đi thì tôi
không hiểu gì hơn. Chỉ một chút xíu ngay trước ngón tay tôi
với ra đã là bức tường không gian mờ ảo.
Trong mùa đông, tôi đi làm thêm ở một quán nhỏ bán đĩa nhạc
ở Shinjuku. Dịp Giáng Sinh, tôi đã tặng em đĩa nhạc hòa tấu
Henri Mancini có bản “Dear Heart” mà em thích. Tôi đã tự
mình bao giấy bóng, gắn thêm nơ màu hồng nữa. Giấy bao đặc
biệt cho dịp Giáng Sinh có hình những cây thông xanh. Em đan
cho tôi bao tay bằng chỉ len, ngón tay cái có hơi ngắn,
nhưng mà ấm áp. Kỳ nghỉ đông ấy, em không về quê, nên tôi
đến nhà trọ của em ăn tối trong mấy ngày đầu năm.
Mùa đông năm ấy đã có nhiều sự kiện xảy ra. Cuối tháng
Giêng, bạn cùng phòng với tôi đã sốt đến 40 độ, nằm liệt hai
ngày. Vì vậy, tôi đã phải bỏ hẹn với em. Tên bạn như sắp
chết đến nơi rồi, mà tôi bỏ đi cũng không đành. Ngoài tôi
ra, nó chẳng có ai coi sóc giùm cho. Tôi mua nước đá về bỏ
trong bao nhựa để chườm cho nó, lấy khăn tẩm nước lạnh lau
mồ hôi cho nó, và cứ mỗi giờ lại đo thân nhiệt một lần.
Nguyên một ngày, nhiệt không suy giảm. Nhưng sáng hôm sau,
nó nhổm bật dậy như đã chẳng có chuyện gì xảy ra, và thân
nhiệt cũng đã hạ xuống chỉ còn 36 độ 2.
- “Lạ quá”. Nó nói. “Từ trước đến nay, có khi nào tôi bị
nóng đâu”.
- “Nóng suốt hôm qua đấy cậu”. Tôi nói, rồi chìa cho nó xem
hai cái vé mời nghe nhạc vì nó bệnh mà tôi và em đã phải bỏ
phí.
- “May là vé mời không tốn tiền, nên không sao cả nhỉ”. Nó
nói!
Tháng Hai có vài lần tuyết rơi. Khoảng cuối tháng Hai, vì
một chuyện chẳng đáng gì, tôi gây gổ và đánh một sinh viên
lớp trên ở cùng dãy trong cư xá, tống đầu vào tường xi-măng.
Rất may, không bị thương tích gì cả. Tôi bị gọi lên phòng
trưởng cư xá nhận cảnh cáo. Do thế mà thấy bực bội trong đời
sống cư xá.
Rồi tôi lên năm thứ hai, 19 tuổi. Tôi rớt vài đơn vị, thành
tích hầu như toàn C với D, chỉ một ít đơn vị được B. Còn em
thì lên năm thứ hai không rớt một đơn vị nào. Thế mà đã một
vòng bốn mùa qua rồi.
Ðến tháng Sáu thì em 20 tuổi. Tôi có cảm giác là lạ: em mà
20 tuổi rồi sao. Thấy như cả tôi lẫn em đều thật sự chỉ qua
lại ở tuổi 18 và 19. Hết 18 đến 19, hết 19 đến 18. Như thế
thì còn hiểu được. Nhưng mà em 20 tuổi thật rồi. Và tôi cũng
sắp 20 mùa đông tới. Chỉ có người đã chết mới ở mãi tuổi 17
thôi.
Sinh nhật em, trời mưa. Tôi mua bánh ngọt ở Shinjuku, leo
tàu điện đến nhà trọ của em. Tàu điện đông người mà lại chao
đảo nữa, vì thế, chiều tối khi tôi lê được đến nhà em trọ
thì chiếc bánh đã nát như di tích cổ thành La Mã. Dù sao,
vẫn cứ dựng lên bánh 20 cây đèn cầy, châm diêm đốt. Màn cửa
sổ đóng lại, tắt đèn trần đi thì cũng khá có không khí sinh
nhật. Em mở một chai rượu vang. Hai đứa ăn bánh, và một bữa
ăn tối nhẹ.
- “Hai mươi tuổi! Nghe có vẻ ngớ ngẩn thế nào ấy”. Em nói.
Ăn xong, hai đứa cùng thu dọn chén đĩa rồi ngồi xuống sàn
uống nốt chai rượu vang. Tôi xong một cốc thì em đã uống hết
hai cốc.
Ðiều lạ là hôm ấy, em nói rất nhiều. Chuyện thời con nít,
chuyện trường học, chuyện gia đình, chuyện nào cũng dài
dòng. Không chỉ dài dòng mà chuyện nào cũng rành mạch, tỉ
mỉ. Chuyện nầy đang kể nửa chừng thì bắt qua chuyện kia như
một phần của chuyện đang kể, rồi chuyện kia lại bắt qua
chuyện nọ nằm trong chuyện kia, cứ thế mà tiếp tục. Liên
miên không dứt. Lúc đầu tôi cũng gắng gật gù đệm nhịp, cuối
cùng phải chịu thua. Tôi cho chạy đĩa hát như để đệm nhịp
cho em nói, đĩa nầy xong đổi đĩa khác. Một vòng hết đĩa lại
quay về đĩa đầu tiên. Bên ngoài trời vẫn chưa thôi mưa. Thời
gian từ từ trôi, em vẫn chưa thôi nói một mình.
Ðến khi đồng hồ chỉ 11 giờ đêm, ngay cả tôi cũng đâm ra lo
sợ. Em đã nói liên tục như thế suốt hơn 4 giờ đồng hồ rồi.
Giờ tàu cuối của tôi cũng gần kề. Tôi chẳng biết làm sao,
nửa thì nghĩ cứ để cho em nói cho đến khi nào em hết chuyện,
nửa thì nghĩ hay là rình chỗ nào ngắt được thì xen vào bắt
em ngừng nói. Băn khoăn như thế một hồi, cuối cùng tôi quyết
định ngăn em lại, bởi dù gì đi nữa thì em cũng đã nói quá
lâu rồi.
- “Nán lại trễ quá cũng không tốt, thôi anh về đây”. Tôi
nói. “Rồi lại gặp nhau ngay ấy mà”.
Không hiểu điều tôi nói có truyền được đến em không. Em
ngưng trong giây lát, rồi lại nói tiếp. Tôi đành chịu thua,
châm thuốc hút. Ngó bộ cứ để cho em nói kỳ hết những điều
muốn nói là hơn. Ðến đâu hay đó vậy.
Nhưng chuyện em nói đến đấy cũng không còn bao nhiêu. Sực
nhìn lại thì em đã ngừng rồi. Lời nói cuối như bị ngắt đuôi,
treo lơ lửng trên không. Chính xác thì chuyện em nói đã
ngừng đâu, chỉ đột nhiên mất hút nơi chốn nào thôi. Em vẫn
còn gắng nói tiếp nhưng đã chẳng còn lời nào phía trước nữa
để mà tiếp theo. Có gì đấy đã rơi đâu mất tăm. Em vẫn còn mở
nhẹ môi, nhìn lơ đãng vào mắt tôi, như đang nhìn xuyên qua
một màng mờ đục. Tôi cảm thấy như đã làm điều gì rất không
nên. Tôi nói chậm rãi như xác nhận từng tiếng một:
- “Không định ngăn em lại, nhưng mà đã khuya quá rồi, vả
lại...”
Chưa nói xong, đã có dòng nước mắt ứa tràn mắt em chảy xuống
gò má, rơi thành tiếng trên bìa đĩa nhạc. Một khi giọt nước
mắt đầu tiên ứa ra, là dòng nước mắt tuôn theo không dứt.
Chống hai bàn tay xuống sàn phòng, em gập người lại khóc như
người đang nôn thốc. Hầu như vô thức, tôi nhè nhẹ vươn tay
chạm vai em đang rung lên từng đợt ngắn. Tôi bàng hoàng kéo
em lại. Em gục mặt lên ngực tôi, khóc không thành tiếng. Hơi
thở nóng ấm và nước mắt em ướt đẫm áo tôi. Mười ngón tay em
lang thang tìm kiếm gì đấy trên lưng tôi. Tay trái tôi ôm
giữ thân hình em, tay phải vuốt làn tóc sợi nhỏ của em.
Trong tư thế ấy một lúc thật lâu, tôi chờ em nín khóc, nhưng
em vẫn khóc mãi, khóc mãi như không bao giờ ngưng.
o0o
Ðêm ấy, tôi ngủ với em. Tôi không biết làm thế có nên hay
không. Nhưng mà làm thế nào khác được?
Ðã lâu lắm rồi tôi không ngủ với người con gái nào. Với em,
thì đấy là lần đầu. Tôi hỏi thử rằng sao em đã không ngủ với
hắn. Hỏi xong mới sực nghĩ là không nên. Em không trả lời.
Tay em rời thân thể tôi. Em quay lưng lại phía tôi, nhìn mưa
rơi ngoài khung cửa sổ. Tôi vừa hút thuốc vừa nhìn lên trần
nhà.
Tảng sáng, mưa ngưng. Em vẫn còn ngủ, quay lưng về phía tôi.
Mà cũng có thể em đã thức suốt đêm qua. Ðối với tôi thì đằng
nào cũng thế thôi. Trầm mặc lại chiếm trọn lấy em như dạo
trước. Tôi nằm yên ngắm chiếc lưng em trắng muốt như thế một
hồi lâu, rồi biết không thể làm gì hơn, tôi đứng lên rời
khỏi giường. Dưới sàn vẫn còn vương vãi những bìa đĩa nhạc
từ tối qua. Trên bàn ăn vẫn còn nửa cái bánh sinh nhật lở
dở. Y như rằng thời gian đã ngưng đọng lại ở đấy. Trên bàn
học có cuốn tự điển và bản chia động từ tiếng Pháp. Tường
trước bàn học có treo cuốn lịch không có hình chụp hay hình
vẽ gì, chỉ toàn số, trắng trinh, không có vết ghi nhớ, đánh
dấu gì trên ấy cả.
Tôi nhặt quần áo đã cởi bỏ ở chân giường, mặc vào người. Chỗ
ngực áo vẫn còn ẩm lạnh, áp gần mặt vẫn còn hương tóc em.
Tôi viết vào mảnh giấy ghi nhớ đặt trên bàn học: muốn em sớm
điện thoại cho tôi, rồi rón rén bước ra và đóng cửa phòng
lại.
Một tuần trôi qua không có điện thoại của em. Nhà em trọ
không chịu chuyển điện thoại gọi đến cho các phòng, nên tôi
viết cho em một lá thư dài. Xúc cảm của mình, tôi muốn giãi
bày trên ấy càng trung thực càng tốt. Thật tình tôi không
hiểu rõ rất nhiều điều, đã gắng tìm hiểu nhưng vẫn không đủ
thời gian. Và thời gian đã trôi qua mà tôi vẫn không biết
mình đang ở chốn nào. Nhưng tôi đã định nếu có thể thì không
suy nghĩ quá sâu sắc về điều gì. Ðời sống quá mơ hồ để có
thể suy xét sâu sắc; làm thế có thể lại đi đến chỗ bắt ép
người chung quanh. Tôi thật chẳng muốn ép ai điều gì. Chỉ
tha thiết muốn gặp em mà thôi. Có điều, tôi vẫn do dự như
trước là gặp em như thế có nên không? Ðấy là tất cả những
điều tôi đã viết trong thư.
Ðầu tháng Bảy, tôi nhận được thư em trả lời, rất ngắn:
“Em định tạm thời nghỉ học một năm. Nói là tạm thời, nhưng
có lẽ sẽ không trở lại trường nữa. Xin nghỉ học tạm chỉ là
trên thủ tục mà thôi. Phòng trọ sẽ trả lại vào ngày mai. Anh
có thể cho là chuyện đột ngột nhưng thật ra chuyện nầy em đã
suy nghĩ từ lâu lắm rồi. Lắm lần cũng định bàn với anh nhưng
rồi cũng không làm được vì sợ chuyện phải nói ra lời.
Xin anh đừng lo bất cứ điều gì. Cho dù có chuyện gì đã xảy
ra, hoặc chuyện gì đã không xảy ra, đi nữa, thì em nghĩ kết
cuộc rồi cũng như thế nầy thôi. Mà nói như thế nầy có khi
lại làm anh buồn. Nếu thế thật thì xin anh tha lỗi. Em chỉ
muốn nói rằng: xin anh đừng vì em mà trách mình hay trách ai
khác. Chuyện nầy quả thật em phải nhận trách nhiệm hoàn
toàn. Một năm nay, em đã lần lữa kéo dài, làm khổ cả anh rất
nhiều. Có lẽ đến đây là giới hạn rồi.
Trong vùng núi Kyoto có một chỗ tịnh dưỡng tốt, nên em định
tạm thời vào ở đấy. Không phải bệnh viện đâu, chỗ nầy an
dưỡng tự do hơn nhiều. Chi tiết thì xin để dịp khác sẽ viết.
Ngay bây giờ em không biết phải viết như thế nào cho phải.
Ngay cả thư nầy, em cũng đã viết đi viết lại 10 lần rồi đấy.
Suốt một năm nay, anh đã vì em mà ở bên em, lòng em biết ơn
anh không lời nào diễn tả nổi. Xin anh tin em, dù chỉ một
điều đó. Những gì khác thì em không dám nói. Những đĩa nhạc
anh cho, em sẽ thương quý mãi mãi.
Em nghĩ một ngày nào đó, ở một nơi nào đó trên thế giới bấp
bênh nầy, nếu mà em lại gặp được anh thì lúc ấy, có lẽ em sẽ
tỏ bày rõ ràng được với anh rất nhiều điều.
Tạm biệt anh.”
Tôi đã đọc đi đọc lại thư em vài trăm lần. Mỗi lần đọc là
mỗi lần buồn bã không chịu nổi. Không khác gì nỗi buồn không
có chỗ thoát mỗi lần em đăm đắm nhìn sâu vào mắt tôi, ngày
trước. Tâm trạng ấy, tôi không ném vứt đi đâu được mà cũng
không nhốt kín vào đâu được. Như gió, không có hình dung,
không có trọng lượng. Bao nó ra ngoài thân mình cũng chẳng
được. Phong cảnh ngoài đời qua đi chầm chậm trước mắt tôi.
Tiếng người nói như không đến được tai tôi.
Vẫn như trước, cứ đến tối Thứ Bảy là tôi lại ngồi trên ghế ở
hành lang hàng giờ. Không hy vọng gì có điện thoại của em,
nhưng mà tôi không biết làm gì khác hơn. Tôi thường vặn máy
truyền hình lên, giả vờ theo dõi chương trình truyền trực
tiếp các trận bóng chày. Tôi ngồi đấy, nhìn đăm đăm vào
khoảng không gian thăm thẳm giữa tôi và cái máy truyền hình.
Mắt tôi chia khoảng không gian ấy ra làm hai, rồi lại chia
làm hai, làm hai, làm hai... cho đến khi chỉ còn là không
gian nhỏ nằm gọn trong lòng bàn tay tôi. Ðến 10 giờ đêm, tôi
tắt máy truyền hình, về phòng, ngủ.
o0o
Cuối tháng ấy, bạn cùng phòng cho tôi con đom đóm trong một
lọ đựng cà-phê. Trong lọ chỉ có con đom đóm với một ít lá cỏ
và nước. Trên nắp lọ có đục sẵn vài lỗ nhỏ cho không khí
vào. Chung quanh vẫn còn sáng nên chỉ thấy như là một con
sâu màu đen bên bờ nước, nhìn kỹ mới nhận ra là một con đom
đóm. Ðom đóm gắng sức bò lên thành thủy tinh trơn trợt, leo
lên được một khúc lại trượt ngay xuống. Lâu lắm rồi tôi mới
lại có dịp thấy côn trùng gần gũi như thế.
- “Bắt được nó ngoài vườn đấy. Khách sạn gần đây thả đom đóm
ra để câu khách, cu cậu làm sao mà lại lạc sang đây đấy”.
Thằng bạn nói, tay vừa nhét áo quần, sách vở vào trong chiếc
túi hàng hải. Nghỉ hè đã mấy tuần rồi, cư xá có lẽ chỉ còn
lại vài đứa tụi tôi. Tôi thì không muốn về quê, nó thì bận
thực tập. Mà nay thực tập cũng vừa xong, nó đang thu xếp đồ
đạc để về quê.
- “Làm quà cho bạn gái tốt lắm đấy nhé. Chắc chắn là các cô
thích lắm”.
- “Cám ơn cậu”. Tôi nói.
Ðến tối thì cư xá im vắng hẳn. Quốc kỳ đã được kéo xuống cất
đi. Cửa sổ phòng ăn thấp thoáng ánh đèn. Vì số sinh viên còn
nán lại rất ít nên phòng ăn chỉ thắp sáng nửa số đèn thường
ngày. Tắt dãy đèn bên phải, chỉ bật dãy đèn bên trái. Dù
vậy, phòng ăn vẫn phảng phất mùi thức ăn tối, món hôm nay là
thịt hầm rau và kem sữa.
Tôi mang lọ cà-phê đựng đom đóm lên sân thượng. Chẳng có
bóng dáng người nào. Có ai bỏ quên chiếc áo sơ-mi trắng vắt
trên dây phơi, trông như cái vỏ trắng phất phới trong gió
đêm. Tôi leo chiếc thang sắt hoen rỉ ở góc sân thượng, lên
trên nóc của tháp chứa nước. Tháp hình viên trụ, hấp thụ đầy
ắp ánh nắng mặt trời từ sáng đến chiều tối nên vẫn còn ấm
nóng. Ngồi xuống khoảng trống chật hẹp, tựa người vào tay
nắm đầu thang sắt, tôi nhìn thấy nổi lên trước mặt, vầng
trăng tròn trắng ngà chỉ hơi khuyết đi một tí. Thấy bên phải
là vùng Shinjuku, bên trái là vùng Ikebukuro. Ðèn trước của
xe hơi chiếu sáng thành những dòng sông ánh sáng rực rỡ,
chảy từ con đường nầy sang con đường khác. Bao nhiêu tiếng
động khác nhau trộn lẫn thành chuỗi vang động ì ầm êm nhẹ
như tầng mây nổi bên trên đường phố.
Ở đáy lọ, đom đóm tỏa ra chút ánh sáng mảnh mai, thứ ánh
sáng quá yếu ớt, quá nhạt, không chút gì giống với thứ ánh
đèn đom đóm trong trí nhớ của tôi, rỡ ràng, sắc sảo trong
những đêm hè đen thẫm. Như thế mới đúng là ánh sáng đom đóm
chứ. Có khi chú đom đóm nầy yếu quá, sắp chết đến nơi rồi.
Tôi nắm miệng lọ lắc thử vài cái. Thân đom đóm đập vào thành
lọ, bay lên được một tị, nhưng ánh sáng phát ra cũng chỉ yếu
ớt mờ ảo như cũ. Có lẽ ký ức của tôi sai rồi. Có lẽ ánh sáng
thực tế không rực rỡ như tôi nghĩ. Có lẽ chỉ là tôi tưởng
lầm, thế thôi. Hoặc là lúc ấy, bóng đêm bao quanh tôi đã quá
sâu thẳm chăng? Tôi thật không sao nhớ rõ được. Ngay cả
chuyện lần cuối tôi nhìn thấy đom đóm là lúc nào, tôi cũng
không nhớ ra được. Tôi chỉ nhớ tiếng nước âm thầm trong đêm
tối ấy. Có cái cổng ngăn nước của cái đập xưa cũ bằng gạch,
loại đập nước có tay quay xoay vòng để kéo cửa ngăn nước lên
xuống. Dòng nước nhỏ như bị phủ kín trên mặt bởi đám cỏ
nước, loại thường mọc ven bờ biển. Lúc ấy, chung quanh tôi
tối đen. Phía trên vũng nước đọng ở cổng ngăn nước, bay lượn
vài trăm con đom đóm, toát ra một khối ánh sáng vàng tươi,
chiếu lên mặt nước những hạt lửa cháy đỏ.
Lúc nào thế nhỉ? Và ở đâu thế nhỉ? Chịu, không sao nhớ nổi.
Bây giờ đây, bao nhiêu chuyện đã trộn lẫn vào nhau mất rồi,
chẳng còn biết đầu đuôi gì nữa.
Tôi nhắm mắt lại, thở thật sâu vài lần để chỉnh đốn lại tâm
tư của mình. Nhắm mắt lại thì có cảm giác như thân thể mình
sắp bị cuốn hút vào trong đêm sâu thẳm mùa hạ ấy. Nghĩ lại
thì đây là lần đầu tiên tôi leo lên tháp chứa nước nầy vào
ban đêm. Nghe tiếng gió rõ ràng hơn ngày thường. Gió hẳn
không mạnh bao nhiêu, vậy mà đã thổi qua nách áo tôi lưu lại
một quỹ tích sắc nét lạ thường. Ðêm chầm chậm bao phủ mặt
đất. Cho dù ánh sáng đô thị cố gắng chứng tỏ hiện hữu đến
đâu đi nữa, cuối cùng rồi cũng không tránh khỏi bị bóng tối
cuốn hút mất tiêu.
Tôi mở nắp lọ, vớt chú đom đóm ra, đặt lên viền 3 phân của
tháp chứa nước. Chú đom đóm có vẻ phân vân chưa nắm được
tình hình. Lúc thì lắc lư bò quanh cái đinh ốc một vòng, lúc
thì gác chân lên mảng sơn lở như tróc da trên mặt tháp. Bò
đi phía bên phải, kiểm thấy cùng đường rồi, lại bò qua phía
bên trái. Rồi từ từ uốn éo bò lên đỉnh cái đinh ốc, cuộn
người nằm ở đấy. Có vẻ chú kiệt sức rồi, nằm yên không cựa
quậy gì. Tôi vẫn tựa vào tay nắm thang sắt, ngắm hình dáng
đom đóm. Một lúc rõ lâu, cả hai đều không động đậy chút nào.
Chỉ có gió thổi, như dòng sông chảy qua giữa hai chúng tôi.
Vô số lá cây cử cọ xát vào nhau. Tôi vẫn còn ngồi mãi như
thế, chờ đợi. Rất lâu về sau, đom đóm nhỏm bật dậy. Như sực
nhớ tới điều gì, đom đóm thình lình giương rộng đôi cánh,
thoáng chốc bay bổng lên khoảng không mờ tối. Như để kéo lại
thời gian đã mất, đom đóm nhanh nhẹn lượn một vòng cung bên
cạnh tháp chứa nước. Rồi ngừng lại như để chờ cho lằn sáng
đom đóm in đậm vào trong gió, xong nhắm hướng đông bay mất.
Ðom đóm đã bay mất rồi, nhưng quỹ tích ánh sáng của đom đóm
vẫn còn lưu lại trong tôi rất lâu. Trong bóng tối dày đặc
của mắt tôi đang nhắm lại, đốm sáng nhỏ nhoi ấy lạc lõng
hoài hoài như một mảnh linh hồn lạc mất lối về. Tôi vài lần
thử rón rén vươn tay vào khoảng tối thẳm ấy nhưng ngón tay
tôi không chạm được gì. Ðốm sáng nhỏ nhoi ấy lúc nào cũng
cách một khoảng vô cùng ngắn trước đầu ngón tay tôi.
Phạm Vũ Thịnh dịch
Sydney 01-2004
-----------------------
Cước chú:
[1] Zelkova, tự điển Hán Việt Thiều Chửu ghi là cây “cử”;
thuộc họ “cây du - elm tree”, cao đến 30 m, tàn rộng,
gỗ cứng, dùng làm cột nhà và bàn ghế.
[2] Ðoạn chính giữa của quốc ca Nhật “Sazare ishi noà”, và
các chữ cuối “koke no musu made”.
[3] Chiếu: tấm cói dày lót sàn phòng, cũng là đơn vị diện
tích phòng và nhà ở, khoảng 180 cm x 90 cm.
[4] Xe nhỏ Honda 360 cc khoảng năm 1969.
Hết
|