Khương, thằng Định,
những đứa bạn cùng lớp bảo tôi, “Phượng đẹp ngây ngất.”
Phượng là nữ sinh đệ nhất Trưng Vương; nàng cũng yêu tôi nhưng xin một
năm đính hôn để học hết trung học. Tôi chờ; một năm dài được chia thành
52 tuần lễ ngắn hơn, đánh dấu bằng 52 ngày chủ nhật chúng tôi gặp nhau.
Không phải là một nhà văn, tôi không mô tả được nét đẹp của Phượng; tôi
chỉ biết là Phượng rất đẹp, và nhất là có một sức hút dễ sợ; chỉ cần gặp
Phượng một lần là không người đàn ông nào quên được nàng.
Xin đừng hiểu lầm Phượng là “típ” người nở nang, ăn mặc khêu gợi; sức
hút của Phượng là sức hút ngầm do duyên dáng, do t́nh ư, chuyển đi từ
đôi mắt. Đôi mắt thật là t́nh. Mẹ tôi phán là đôi mắt lẳng lơ; tôi không
thích hai chữ này v́ nó làm mất đẹp cặp mắt trữ t́nh của Phượng.
Trước hôn nhân tôi mê mệt với đôi mắt ấy; sau hôn nhân tôi khổ sở, bực
bội cũng v́ đôi mắt ấy. Không một người đàn ông nào, dù chỉ gặp Phượng
lần đầu, không có cảm tưởng đă yêu nàng và t́nh yêu của họ không bị nàng
hất hủi. Ít nhất Phượng cũng không xua đuổi, không vô t́nh với họ. Tôi
mất một số bè bạn cũng v́ Phượng. Chỉ một vài lần gặp Phượng, chạm mắt
với Phượng cũng đủ để họ thầm nghĩ là tôi dă mọc sừng.
Dĩ
nhiên vợ tôi không thể có t́nh ư với tất cả mọi người, nhưng cái khổ là
đôi mắt đắm đuối của Phượng không nh́n mọi người một cách thản nhiên như
người ta nh́n những vật vô tri quanh ḿnh.
Giờ này, vợ tôi không c̣n trên cơi đời trần tục nữa tôi mới thấm thiá
hiểu được một việc rất giản dị, rất tầm thường là không tạo ra đôi mắt
của chính ḿnh, Phượng không có trách nhiệm ǵ về những đổ vỡ đôi mắt
gây ra. Chỉ có tác giả đôi mắt đó _ông Thợ Tạo_ mới đúng là người tôi
phải oán trách.
Đi
đôi với cặp mắt t́nh tứ là một đồng tiền rưỡi (một ở bên má trái, và một
nửa ở cạnh môi dưới) trên khuôn mặt tươi như hoa, trắng mỏng manh. Cái
đồng tiền rưỡi ấy _dù chỉ có đồng rưỡi_ có ma lực giết người. Xin hiểu
hai chữ “giết người” theo nghĩa trắng của nó. Chỉ riêng tôi biết cũng đă
có 2 người chết đuối trong cái vũng thịt sâu không đầy nửa ly này.
Một trong 2 người xấu số là bạn thân của tôi. Nó tự bắn vỡ toang đầu
ngay trên bậc cửa nhà tôi. Lá thơ tuyệt mạng trong túi nó chỉ có mấy chữ
“h́nh dung em đang nằm trong tay một người đàn ông khác, anh không c̣n
can đảm sống nữa.” Tôi cũng không bao giờ đủ can đảm để t́m hiểu xem vợ
tôi có nằm trong ṿng tay nó không. Hai gịng chữ nó viết không cho phép
tôi hiểu khác được.
Tôi chạy trốn trước mọi ngờ vực; tôi quan niệm đă không tránh được băo
cát th́ thà vùi đầu xuống cát để không c̣n biết tới giông băo bên ngoài
nữa. Tôi hèn nhát? Có thể; nhưng tôi làm ǵ hơn được? Không chỉ yêu
thương vợ, tôi vẫn c̣n say mê vợ tôi sau 3 năm chăn gối.
Mẹ
tôi, chị tôi đề quyết vợ tôi đă cho tôi ăn bùa mê, thuốc lú. Tôi hiểu
quan điểm những người thân của tôi; tôi hiểu cả định mệnh của tôi, của
vợ tôi, và của cả những người say mê vợ tôi nữa.
Tôi vừa nói tôi hiểu định mệnh của vợ tôi. Điều đó cần được giải thích
rơ hơn; đôi khi tôi nghĩ Phượng cũng đáng trách, nhưng trong đa số những
đổ vỡ quanh nàng, Phượng chỉ thụ động, đáng thương. Phượng sợ và tránh
né tất cả mọi gặp gỡ. Những buổi liên hoan của đơn vị tôi, những cuộc
họp khóa, họp bạn của tôi, luôn luôn Phượng cáo bệnh hay t́m cớ bận con
để không tham dự.
Cũng như tôi, Phượng sợ hậu quả của những cuộc giao tiếp, sợ cái bản
chất đa cảm, đa t́nh của chính ḿnh. Không phải là một người đàn bà trắc
nết, vợ tôi thật sự chỉ là nạn nhân của bản ngă.
Sở
dĩ tôi phải dài lời nói về vợ tôi như vậy, lả để người đọc h́nh dung
được cái ray rứt, khổ sở của tôi trong 14 tháng tù khổ sai được cộng sản
đánh bóng bằng hai chữ “cải tạo.”
Cũng như mọi sĩ quan cấp úy khác, tôi bị cộng sản lừa bằng cách chơi
chữ. Trên đài phát thanh, chúng kêu gọi binh sĩ tŕnh diện và đem theo 3
ngày ăn. Sau 3 ngày học tập, thành phần binh sĩ được ra về yên ổn. Tiếp
theo đó, chúng kêu gọi các sĩ quan cấp úy tŕnh diện với 10 ngày tiền
ăn. Chúng tôi tin tưởng, hoặc ít ra chúng tôi cũng mong mỏi là thời gian
cải tạo chỉ kéo dài 10 ngày. Đó là cái lầm của tôi, cái ảo tưởng đưa đến
chỗ tự diệt của mọi cán bộ chỉ huy.
Cộng sản hiểu rằng mặc dù nhất thời thất trận, lực lượng quân sự của
miền Nam vẫn c̣n là một đe dọa nghiêm trọng đối với nền thống trị mà lúc
ấy chúng mới rắp tâm đem đặt lên lưng người dân Nam Việt. Một triệu quân
nhân bị đặt vào hoàn cảnh thất thế v́ những lừa đảo, phản phúc chính
trị, những dốt nát chiến lược đă bị những mũi dùi tấn công của 15 sư
đoàn Bắc Việt xé thành từng mảng nhỏ. Muốn ngăn ngừa sự kết hợp lại của
những mảng quân lực, cộng sản chủ trương đánh vỡ đầu rắn: chúng phải
tiêu diệt bằng mọi giá hệ thống cán bộ chỉ huy của QLVNCH. Trong 3 ngày
học tập, chúng đối xử hết sức nhă nhặn lễ độ với anh em hạ sĩ quan, binh
sĩ. Không một h́nh thức hành hạ giam cầm, không một lời nói nặng, một đe
dọa.
Sau 3 ngày học tập binh sĩ đem loan truyền với chúng tôi cái tin tưởng
học tập qua loa, ra về đúng kỳ hạn. Điều đó làm đa số sĩ quan cấp úy
chúng tôi yên ḷng khăn gói lên đường với 10 ngày tiền ăn. Nhiều anh
lười, không đem theo cả mùng mền, tính ngủ nhờ với bạn bè cũng đủ qua
khoảng thời gian 10 ngày ngắn ngủi.
Dĩ
nhiên là chúng tôi đă lầm; chỉ ngay sau khi cái bẫy xập xuống đầu chúng
tôi, cộng sản trắng trợn vứt bỏ mặt nạ “đại đoàn kết dân tộc, xóa bỏ hận
thù.”
Bài học đầu tiên chúng tôi được nghe qua giọng nói hằn học căm hờn của
một anh cán bộ quản giáo Bắc Việt. Anh ta oang oang bảo chúng tôi, “Các
anh quên hết địa vị xă hội của các anh đi. Kể từ ngày hôm nay, vợ con
các anh sẽ ngửa tay xin nhân dân từng hột cơm; và vài tháng sau vợ các
anh chỉ c̣n nước đi làm đĩ để sống.”
Chúng tôi thắc mắc về thời gian 10 ngày, hắn cười khẩy, vẻ mặt câng
câng, đểu cáng, “Các anh chỉ có 10 ngày ăn thôi ư? Đừng lo, cứ ăn hết 10
ngày đó đi đă; sau đó ăn bám vào sức sản xuất của nhân dân.”
Trước mỗi cửa pḥng giam, cộng sản cắc cớ bắt chúng tôi phải dán lên
khẩu hiệu “không có ǵ quư bằng độc lập, tự do.” Cán bộ Việt Cộng c̣n
phụ giải “người đi trên sa mạc thấy không có ǵ quư bằng nước uống. Các
anh sẽ thấy đối với các anh th́ không có ǵ quư bằng tự do.”
Đề
cao cái giá của tự do trong nhà giam quả là việc làm vừa châm biếm, vừa
độc ác. Nhưng không phải chỉ trong nhà giam tôi mới thấm thía hiểu tự do
là quư. Sau này ra khỏi trại cải tạo, sống trong cái nhà giam lớn hơn là
nguyên cả Miền Nam Việt Nam tôi càng thấy rơ không phải chỉ một ḿnh
tôi, mà cả 20 triệu người dân Nam Việt đều đang khắc khoải giữa sa mạc
thống trị, thèm khát ngụm nước tự do.
Xin trở lại với trại cải tạo và với vợ tôi; tôi bị giam 2 tháng hơn th́
một buổi chiều nghe loa gọi lên văn pḥng. Tôi tái người, nghĩ ngay đến
những vụ thủ tiêu, biệt giam, thường xẩy ra đối với những thành phần
cộng sản gọi là ngoan cố.
Bản chất hiền lành, tôi không ra mặt chống đối bọn giảng viên, quản
ngục. Cái tội của tôi chỉ là không nuốt trôi được mớ lư thuyết rẻ tiền,
lẩm cẩm của cộng sản. Nhưng đối với chúng, đó không phải là một khinh
tội. Tôi lo lắng chờ đợi một h́nh thức trừng phạt v́ trọng tội trí thức.
Lên đến văn pḥng, tôi được một anh binh ba Bắc Việt, mặt non choẹt, đưa
vào pḥng chính ủy. Và tôi đă chết đứng khi thấy Phượng trong đó.
Giọng đầy cải lương, nhân vật số một của trại giam bảo tôi, “Xét thành
tích học tập tốt của anh, nhân dân đặc biệt cho anh được nhận sự chăm
nuôi của gia đ́nh.”
Tôi học tập tốt? Thật là mai mỉa; những âm thanh giảng huấn chan chát
của bọn cán bộ cộng sản đối với tôi không một mảy may khác những tiếng
cuốc đất trong giờ lao động sản xuất. Tôi đoán hiểu cái lư do đă khiến
“nhân dân đặc biệt cho phép” tôi được nhận sự thăm nuôi của gia đ́nh.
Cặp mắt nẩy lửa v́ giận, tôi nh́n Phượng. Vợ tôi đă đến cái nước đi làm
đĩ như bọn cộng sản tiên đoán rồi ư? Phượng cũng nh́n tôi, đôi mắt vẫn
t́nh tứ, nhưng buồn thăm thẳm và ướt đẫm. Những giọt lệ lăn dài trên đôi
má nhung mịn màng làm ḷng tôi se thắt. Tôi thèm bước tới, ôm Phượng vào
ṿng tay, và hôn dài trên đôi mắt đắm đuối ấy. Nhưng dĩ nhiên ngoại cảnh
không cho phép tôi làm việc tôi thường làm đó.
Vợ
tôi nghẹn ngào, “Bé Mai nhớ anh lắm.”
Bé
Mai! Đứa con gái 2 tuổi của tôi, báu vật của vợ chồng tôi! Tôi đứng
khựng như trời trồng trước cái h́nh ảnh nhỏ bé, thương yêu mà vợ tôi vừa
gợi ra.
Suốt 10 phút gặp gỡ, tôi không nói được một lời nào với Phượng cả. Cổ
họng tôi nghẹn cứng; rồi bên tai tôi văng vẳng thật xa có tiếng nói của
tên chính ủy: “Thôi, xách đồ ăn về pḥng đi, Tuần sau lại được thăm nuôi
nữa.”
Đêm đó tôi không chợp mắt. Tôi h́nh dung những chuyện đă xẩy ra giữa vợ
tôi và tên chính ủy cộng sản trước khi tôi được dẫn vào và sau khi tôi
bị đưa ra khỏi văn pḥng hắn. Tôi không tin đă có ǵ quá đáng trong
pḥng làm việc. Nhưng sau đó hắn có thể đến nhà tôi hay bảo vợ tôi đến
một chỗ nào đó.
Tuần sau và những tuần kế tiếp, Phượng đều đều đến thăm tôi, mỗi lần đem
theo một món ăn mà trước kia tôi ưa thích. Tôi nuốt những món khoái khẩu
mà có cảm tưởng như ḿnh đang ăn rơm khô, không mùi, không vị. Mỗi lần
thăm viếng chúng tôi được nói chuyện với nhau 10 phút. Toàn những chuyện
bâng quơ. Cả hai đứa chúng tôi đều không dám đả động tới điểm ngờ vực
đau xót của tôi.
Có
lần Phượng nói với tôi bằng cái giọng thiết tha nhưng nghiêm trọng, “Em
chỉ xin ḿnh tuyệt đối tin tưởng là em yêu ḿnh. Suốt đời em, em chỉ yêu
có một ḿnh ḿnh. Mặc dù những ǵ đă xẩy ra hay sẽ xẩy ra th́ t́nh em
yêu ḿnh vẫn măi măi là sự thật duy nhất.”
Qua tâm linh, tôi biết Phượng nói thật. Tôi muốn quên những việc đáng
buồn đă xẩy ra; quên không được, tôi cố gắng bào chữa cho Phượng. Nhưng
ghen tương, ích kỷ, cũng không phải là những cảm nghĩ nhỏ trong ḷng
người chồng.
Những cuộc thăm viếng kéo dài được 4 tháng th́ một hôm Phượng bảo tôi,
“Tuần sau em về Long Xuyên với má; sống ở thành phố không có sinh kế ǵ
hết.”
Tôi hăng hái khuyến khích vợ tôi xa ĺa Saigon . Ít nhất về ruộng sống
với mẹ Phượng cũng đỡ phải lo 2 bữa ăn hàng ngày, cái lo to lớn của
người thị dân sau ngày bị giải phóng.
“Mỗi tuần được gặp em là niềm an ủi lớn cho anh,” tôi bảo vợ. “Nhưng cái
nh́n ngờ vực, khó chịu của 2,000 anh em đồng đội, đồng cảnh trước việc
anh được uu đăi làm anh khổ sở. Anh muốn chịu chung những đầy ải với
họ.”
Tuần sau Phượng không đến thăm tôi nữa. Cuộc sống khổ sai không hạn định
trở thành dài hơn v́ thiếu sự chia cắt của những tiêu mốc ngắn hạn. Tôi
trở lại vị trí của cái máy người, vô tri giác, không phản ứng, bảo đi
th́ đi, bảo học th́ học, bảo lao động th́ lao động. Những bạn nào đă
sống trong trại cải tạo của Việt Cộng hẳn đồng ư với tôi là cộng sản đă
thành công trong việc làm chúng tôi mất hết tri giác. Không vui, không
buồn, không hy vọng, thất vọng, không mong chờ bất cứ một điều ǵ nữa.
Cuộc sống hàng ngày như một bộ máy được điều động bằng những tiếng c̣i,
những khẩu lệnh. Phần ăn quá đói làm tất cả chúng tôi t́m được cái khôn
ngoan của loài vật: không làm một cử động thừa, không nói một câu thừa
để không phí phạm bất cứ một phấn thật nhỏ nào cái sinh lực le lói c̣n
trong xác người.
Chính trong trạng thái vật vờ của một xác chết chưa chôn ấy, tôi nhận
được giấy phóng thích. Cầm tờ giấy chấm dứt cuộc sống tù ngục của ḿnh
trong tay, tôi dửng dưng như cầm một tờ truyền đơn học tập. Nói dửng
dưng cũng vẫn chưa đúng; tôi không ư thức được những thay đổi tờ giấy
mang lại cho tôi. Nhẩn nha nhơi từng hột bắp của bữa ăn trưa đói khổ tôi
nghe cơ thể khoan khoái với chút bồi dưỡng ít oi. Trái bắp có trong tay
vẫn quư hơn hai chữ “tự do” mới viết trên giấy.
Một cán bộ bảo tôi, “Chiều nay anh khỏi lao động; về sửa soạn nóp, chén
trả lại nhà kho.”
Khỏi lao động, một tin mừng khác. Tôi trở về căn pḥng giam hôi hám
nhưng mát rượi như một thiên đàng so sánh với cái hỏa ngục lao động sản
xuất mà các bạn tôi đang chịu đựng ngoài trời.
Bốn giờ chiều Phượng đón tôi ngoài cổng trại giam. Người vợ đài các của
một bác sĩ mặc cái áo bà ba vải bông và cái quần đen, đứng vịn một chiếc
xe đạp đàn ông cũ kỹ. Có thể tôi sẽ ít ngỡ ngàng hơn nếu từ trong thế
giới tù ngục bước ra được gặp lại thế giới cũ của ḿnh với xe honda, với
áo dài. Tôi đang bước vào một thế giới hoàn toàn khác lạ sau chưa đầy 2
năm mất nước.
Thế giới bên ngoài nhà tù không phải ít khe khắt, ít đọa đầy; suốt một
năm trời tôi phải sống trong chế độ “quản chế của nhân dân”; tôi xin
giải thích những chữ văn hoa này. Chế độ “quản chế của nhân dân” có
nghĩa là tôi phải làm mọi không công, phải sợ sệt tất cả mọi người. Bất
cứ ai trong phường cũng có quyền phán xét là tôi chưa giác ngộ, cần học
tập thêm, là tôi lại đi tù nữa.
Tôi cúi mặt trước tất cả mọi người, dù đó chỉ là một đứa con nít. Tôi
vâng dạ, tôi tuân lệnh, không cần biết lệnh đến từ đâu. Một bà hàng x̣m
gọi tôi đến coi chứng bệnh cho thằng con tám tuổi. Sau khi quan sát kỹ
mọi triệu chứng, tôi bảo bà là con bà bị thương hàn và không có cách nào
hay hơn là đưa nó đi bệnh viện. Bà quắc mắt, “Anh đi học tập ra mà con
như vậy đó hả? Nhân dân có quá nhiều nhu cầu để bệnh viện thừa chỗ trống
cho một đứa con nít nóng lạnh. Anh không biết cách nào khác nữa sao?”
Tôi đề nghị bà đừng cho con ăn ǵ hết để ruột không hư. Bà ta cáu kỉnh
nạt, “Lang băm tư bản.”
Sau khi tôi về không hiểu bà có nghe lời tôi khuyến cáo không, nhưng rất
may là đứa trẻ lành bệnh. Suốt nửa tháng trời tôi hồi hộp lo sợ: cái
chết của đứa trẻ v́ thiếu thuốc, thiếu chăm sóc có thể đưa tôi trở lại
trại cải tạo như không.
Nguồn an ủi của tôi là số người thiếu ư thức như bà hàng xóm mà tôi vừa
kể tương đối rất ít; đa số dân Saigon sống trong một t́nh đoàn kết ngấm
ngầm nhưng khắng khít. Một bà cụ dúi cho tôi gói gạo nhỏ qua câu nói chí
t́nh, “Bác sĩ phải ăn thêm mới sống nổi, tôi già rồi, thiếu thốn chút
đỉnh cũng không đến nỗi nào.” Bà vợ của một công chức c̣n đang tù tội
cho tôi đôi giầy. Ông hàng xóm sát vách cho cái áo.
Nhưng mọi nguồn vui của tôi đến từ Phượng th́ nàng cũng là nguyên nhân
của mọi buồn khổ. Phượng làm đĩ ra mặt, không c̣n e dè ǵ tôi nữa cả. Vợ
tôi không chỉ tống t́nh cán bộ cộng sản để thăm nuôi tôi nữa, mà xuống
đến tận chân thang của xă hội: mỗi ngày vài lần những anh phu xích lô
đến gọi Phượng đi khách. Những lần đầu tiên Phượng c̣n ngượng với tôi,
nhưng sau quen dần, nàng chỉ bảo tôi, “lát em về.”
Phần tôi, tôi vẫn phải t́nh nguyện xung phong trong mọi công tác nặng
nhọc của phường như hốt rác, quét đường, trồng cây, thông cống, ... .
Tôi xung phong để được chấm điểm, xung phong để khỏi trở lại lao tù cải
tạo. Đôi khi nghĩ quẩn tôi cho rằng đi tù mà c̣n tự do hơn chế độ nhân
dân quản chế.
Thêm một lần nữa, tôi tuyên dương sự thành công của cộng sản. Chúng đă
hoàn toàn đập tan uy thế của giới chỉ huy, giới trí thức miền Nam . Suốt
một năm ra khỏi tù, tôi không được phép làm bất cứ một việc ǵ cả. Nói
một cách khác, tôi phải ăn bám vào đồng tiền vợ tôi ngày ngày bán thân
tạo ra. Sau 31 năm, nghĩ lại tôi vẫn rùng ḿnh khiếp sợ.
Tôi xin độc giả ngưng đọc một phút để h́nh dung cái nhục nhă của tôi,
của tất cả giới trí thức miền Nam . Tôi không đủ can đảm để nói bất cứ
câu ǵ với vợ tôi về việc làm của nàng; cả hai chúng tôi cúi đầu chịu
phép trước guồng máy xă hội mới.
Nếu một ngày tù dài bằng một ngàn năm sống tự do th́ 365 ngày bị trói
tay, thất nghiệp, sống đói khổ dưới quyền quản chế của nhân dân, và nh́n
vợ đi làm đĩ chắc phải dài hơn sự hiện hữu của cả hệ thống vũ trụ.
Giữa hai vợ chồng tôi nẩy sinh ra một t́nh trạng ngượng ngập khó tả, Ít
khi tôi dám nh́n thẳng vào mắt Phượng, và gần như không bao giờ tôi dám
nói với nàng chuyện ǵ khác hơn là những câu đối thoại tầm thường quanh
sinh hoạt nho nhỏ trong nhà.
Thỉnh thoảng bà mẹ vợ tôi lén lút đem được ít gạo, ít thịt lên cho chúng
tôi. Qua những cuộc tiếp tế lậu này, tôi khám phá thêm được một bí mật:
vợ tôi không hề về Long Xuyên với mẹ như nàng đă nói với tôi. Phượng đă
làm ǵ, ở đâu, trong 7 tháng trời tôi nghĩ nàng về quê sống với mẹ? Cả
đến câu hỏi này cũng chưa lần nào tôi dám hỏi Phượng. Tôi trốn chạy một
sự thật phũ phàng nào nữa đó sẽ đến, nếu Phượng phải trả lời tôi.
Tối 30 tháng Chín 1978, sau khi theo một anh xích lô “đi khách” về,
Phượng kéo tôi vào pḥng trong cùng với bé Mai. Trên bộ ván thay cho cái
giường nệm đă đi vào chợ trời từ hai năm trước, Phương mở gói thịt quay
ra rồi bảo tôi, “Ḿnh ăn với em.”
Từ
sau ngày mất nước đây là lần đầu tiên tôi lại được nh́n thấy miếng thịt
quay; Phượng lăng xăng bới cơm, và vợ chồng con cái chúng tôi ăn uống
ngon lành như chưa bao giờ được ăn ngon đến như thế.
Những đó không phải là điều ngạc nhiên duy nhất của tôi; ăn uống xong,
vợ tôi kéo từ trên đầu tủ xuống một gói giấy: bên trong là một bộ đồng
phục thanh niên xung phong. Tay chân run rẩy, Phượng trải bộ quần áo lên
mặt bộ ván, rồi giọng nói cũng run rẩy nàng bảo tôi, “8 giờ sáng mai,
ḿnh mặc đồng phục này đứng đón tàu ở bến Bạch Đằng.”
“Đón tầu? Để đi đâu?”
Không trả lời câu hỏi của tôi, vợ tôi chỉ lập cập nói, “Em đă đóng đủ 10
cây cho họ rồi.”
Mười cây vàng! Tôi choáng váng với con số lớn khiếp đảm đó.
“Vàng đâu mà em có đến 10 cây?” Câu hỏi buột miệng không nuốt trở vào
được nữa, tôi chỉ c̣n biết nh́n vợ tôi, câu xin lỗi ngầm chứa trong ánh
mắt. Phượng cũng nh́n tôi, đôi mắt thăm thẳm t́nh tứ trên khuôn mặt vẫn
c̣n đẹp dù đă gầy đi và dạn dầy phong trần.
Sau một phút im lặng, nàng nghẹn ngào, “Em không biết ḿnh có tin hay
không, nhưng sự thật lúc nào em cũng yêu ḿnh.”
Tôi ôm Phượng vào ḷng; giữa một xă hội thù hận, cái bóng mát yêu thương
nhỏ bé thật là vô giá. Mặc dù Phượng chưa nói, nhưng tôi cũng đoán hiểu
mục đích vượt thoát của chuyến đi ngày mai, và hiểu 10 lượng vàng, giá
của chuyến đi là kết quả của những canh dài Phương đem thể xác ra cho
thiên hạ dầy ṿ để góp nhặt từng đồng hầu mua tự do cho tôi.
Cổ
nghẹn lại, tôi không nói được một tiếng nào cả; tôi vừa sung sướng trước
những bằng chứng hiển nhiên của một mối t́nh to lớn, bền chắc, vừa xấu
hổ nhận những hy sinh nhục nhă của vợ.
Phượng bảo tôi, “Em chỉ đủ tiền đóng cho ḿnh; nhưng em với con vẫn đi
theo ḿnh.” Nàng giải thích cho tôi hiểu chuyến tầu vượt thoát là tầu
thầu việc chuyên chở thanh niên xung phong đi làm rừng ở cửa Cần Giờ.
Sáng mai, tôi sẽ cùng với 30 người nữa đội lốt thanh niên xung phong
xuống tầu tại bến Bạch Đằng. Đàn bà, trẻ con đi đường bộ xuống ngă ba
Đồng Chanh, chờ tại đó và sẽ đổ lên tầu. Họ là những người đi lậu, không
đóng vàng.
“Người ta đi lậu nhiều lắm,” Phượng bảo tôi. “Em cũng trà trộn vào đám
người đó; không lẽ người ta xô ḿnh xuống sông. Sợ ǵ?”
Tôi sợ. Rùng ḿnh tôi nghĩ đến cảnh “người ta xô vợ con tôi xuống sông”,
nhưng có sợ tôi cũng không giải quyết được cái khó không tiền và đành
theo mọi xếp đặt của Phượng.
Đêm đó tôi trằn trọc không ngủ, Phượng cũng không ngủ. Vào khoảng gần
sáng nàng hỏi tôi, “Ḿnh đă đủ tin vào t́nh em yêu ḿnh để tha thứ hết
mọi việc cho em chưa?”
“Anh tin. Anh yêu ḿnh.”
“Em c̣n một tội nữa, chưa thú nhận được với ḿnh.”
Trong bóng đêm, tôi lặng thinh lo lắng. Ngần đó bất hạnh chồng chất vào
một cuộc sống ngắn ngủi, cay cực, c̣n chưa đủ nữa hay sao.
Vợ
tôi thở dài, “Lúc đó em c̣n khờ quá nên chuyện mới xẩy ra. Em phải nói
dối ḿnh là em về Long Xuyên với má. Thật ra em không muốn ḿnh buồn.”
Dù
vợ tôi chưa nói ra, nhưng tôi cũng đoán hiểu.
“Em có con?” tôi hỏi.
Rúc đầu vào ngực tôi, vợ tôi thút thít khóc, “Ḿnh tha cho em.”
Đứa con chỉ là hậu quả đương nhiên cua những việc làm mà tôi đă nh́n vợ
tôi hàng ngày đi theo những bác phu xích lô để làm. Bây giờ tôi lại hiểu
mục đích cao cả của việc làm đê tiện đó. Tôi thương Phượng hơn là trách
nàng.
“Ngày mai em muốn cho con cùng đi?”
“Nếu ḿnh đồng ư.”
Dĩ
nhiên tôi đồng ư; đồng ư đưa những người thân nhất đời ḿnh vào chuyến
đi địa ngục, vào ṿng tay tử thần.
Trước 5 giờ sáng hôm sau, trong bộ đồng phục thanh niên xung phong, tôi
chở Phượng và bé Mai trên chiếc xe đạp mà mấy tháng trước Phượng đă dùng
để đón tôi ra khỏi trại tù cải tạo. Mặc dù giờ hẹn là 8 giờ, nhưng tôi
vẫn đi sớm để hàng xóm đừng để ư đến bộ đồng phục của tôi. Hơn nữa,
Phượng c̣n ghé Phú Nhuận, nơi nàng gởi nuôi thằng V́nh, đứa trẻ ra đời
trong thời gian tôi ở tù.
Mọi việc xuôi lọt, và tương đối dễ dàng: 7 giờ sáng tôi đến điểm hẹn;
nhiều người cũng mặc đồng phục như tôi đă có mặt; nh́n thái độ ngỡ
ngàng, dè dặt của họ, tôi hiểu họ cũng như tôi, ngoài bộ áo thanh niên
xung phong, chúng tôi không xung phong làm ǵ hết.
Phượng bảo tôi, “Ḿnh chờ ở đây, em qua Tân Thuận đón đ̣ máy.”
Nh́n vợ lưng đai một đứa con, chở đứa thứ nh́ trên thanh ngang xe, ra
sức đạp chiếc xe cót két, tôi nghe đứt ruột. Nửa tiếng đồng hồ sau tôi
xuống tàu, chọn chỗ ngồi ngay bên hông, hy vọng giúp đỡ Phượng đưa con
lên. Khoảng 8 giờ 45, tàu đến ngă ba sông Đồng Chanh; bốn chiếc đuôi tôm
xáp lại, đàn bà trẻ con ồn ào dành nhau leo lên. Tôi đỡ bé Mai trên tay
Phượng, rồi kéo Phượng, tay c̣n bồng thằng Vinh lên theo. Cuộc đổ bộ của
khoảng 70 đàn bà, trẻ con lên tàu không những đă công khai mà c̣n ồn ào,
hỗn độn, tranh dành, la lối, đính chánh hùng hồn cái huyền thoại gán cho
cộng sản một hệ thống an ninh bao trùm và hữu hiệu. Hàng chục khách
thương hồ và ít nhất là 4 người tài công đuôi tôm đă chứng kiến và chắc
chắn cũng đă biết mục đích của chuyến đi, nhưng cộng sản vẫn không bắt
buộc được họ khai báo, phản phúc đồng bào ruột thịt.
Mười rưỡi, tàu ra đến cửa biển Cần Giờ, và trưa hôm đó quê hương thương
yêu chỉ c̣n là một vệt dài dậm hơn mầu biển. Đến lúc này các “giới chức”
trên tàu mới ḥ hét chửi mắng những người vượt thoát lậu. Họ bảo chỉ dự
trù lương thực và nước uống cho những người có ghi tên và có góp vàng.
Những người khác sẽ không có khẩu phần.
Phần ăn và nhất là phần nước uống ít oi của tôi được chia làm 4; bao tử
trống nhưng tâm tư vợ chồng chúng tôi tràn đầy hạnh phúc. Vợ tôi ngồi
sát bên tôi, tay ẵm thằng Vinh, bé Mai nằm gọn trong ḷng tôi; đầu vợ
chồng tôi đội chung một cái áo, vừa làm nón cho người lớn, vừa làm mái
nhà cho trẻ con.
Ngồi bó rọ trong cái cảnh mà nếu được nh́n thấy, chắc mọi người phải gọi
là địa ngục trần gian, vợ chồng tôi bàn chuyện thiên đàng mộng tưởng.
Cái thiên đàng của chúng tôi rất giản dị: bất cứ nơi nào cho tôi được
đem sức đàn ông ra đi làm, làm bất cứ việc ǵ để nuôi vợ, nuôi con.
Tôi bảo Phượng, “Anh sẽ làm việc, làm ngày, làm đêm, để không bao giờ em
và con c̣n phải thiếu thốn khốn khổ nữa.”
“Em thương ḿnh,” Phượng thủ thỉ bên tai tôi. “Không bao giờ em c̣n làm
ḿnh buồn nữa.”
Tất cả những cam kết, hứa hẹn, dự tính đẹp như mộng ấy, chúng tôi đem ra
làm thức ăn để đánh lừa cơn đói. Khẩu phần của tôi mỗi bữa khoảng 2 chén
cơm chỉ vừa đủ cho 2 đưa nhỏ. Phượng và tôi nhắp một đầu đũa để cầm hơi.
Qua đến ngày thứ 3, v́ đói quá, khi đi lănh cơm tôi tḥ tay vào nồi, vừa
bốc thêm một nắm cơm vừa nói, “Cho tôi xin thêm chút cơm.”
Một quả đấm bay vào mặt tôi; yếu đuối sau 14 tháng bị giam cầm đói khổ,
yếu đuối sau 3 ngày thiếu cơm, thiếu nước, tôi té ngửa dưới sức mạnh của
quả đấm trời giáng.
“ĐM quân ăn cướp. Đă đi lậu mà c̣n đ̣i ăn nữa hả.”
Quả đấm tuy đau, nhưng tôi vẫn mừng v́ cà mèn cơm chưa đổ. Bưng cà mèn
đầy cơm hơn nhờ bốc thêm được một nắm về mái lều to bằng manh áo, tôi
sung sướng nh́n Phượng được ăn thêm miếng cơm thứ nh́. Tôi an ủi vợ,
“Ḿnh đi được 3 ngày rồi, nhiều lắm 2 ngày nữa cũng phải đến Thái Lan
hay Mă Lai.”
Héo hắt cười, Phượng nh́n tôi. Tôi muốn thuyết phục cho vợ yên ḷng,
nhưng chính giọng nói của tôi cũng không vững.
Mũi tàu vẫn hướng về phía Nam , điều làm tôi thắc mắc. Mặc dù không có
cả đến một tấm địa đồ nhỏ trong tay, nhưng tôi vẫn mường tượng được vị
trí của Thái Lan và Mă Lai so với Việt Nam . Tôi góp ư với những người
điều khiển tàu là nên cho mũi tàu chếch thêm về hướng Tây Nam . Tôi chưa
nói dứt lời, một ông vạm vỡ nạt ngang, “Anh biết ǵ mà nói.”
Đến ngày thứ 5 của chuyến hải hành, vợ tôi lả đi v́ đói, v́ mệt và say
sóng. Phượng dựa vào thành tàu, mắt nhắm nghiền, đầu gục xuống. Tôi van
xin ông ngồi cạnh nửa thước khoảng trống để vợ tôi có thể ngả lưng trong
thế nằm co quắp. Hai đứa bé không c̣n khóc được nữa; tiếng khóc của
chúng trở thành những tiếng rên nho nhỏ.
Tôi ṃ xuống bếp tán tỉnh xin phụ việc. Khoản thù lao tôi mong mỏi chỉ
là mỗi bữa một chén nước cơm cho trẻ con uống. Chúng không c̣n sức để
nhai và nuốt vật cứng nữa. Một ông “giới chức” hất hàm hỏi tôi, “Trước
kia anh làm nghề ǵ?”
Dĩ
nhiên việc đi cải tạo không phải là một nghề, mà cũng không phải là việc
đem ra khoe được, tôi đành khai, “Thưa ông, tôi làm bác sĩ.”
“Biết chích không?”
“Dạ biết.”
Thế là tôi biến thành thầy Hai chích dạo. Bà vợ ông giới chức bị bệnh
đái đường; ông đem theo một xách thuốc cần thiết cho bà, nhưng thiếu
thầy Hai chích. Đường lên, bà nằm mê man từ 2 ngày nay. Tôi được đưa vào
khoang để chích insuline cho bà. Bữa đó không những có được chén nước
cơm, mà trong cà mèn c̣n thêm được một miếng thịt.
Được dinh dưỡng, vợ tôi và 2 đứa trẻ cũng tỉnh táo hơn. Chiều hôm đó tôi
lại có thêm một thân chủ: gia đ́nh một người Trung Hoa nhờ tôi chăm sóc
cho đứa con bị cảm nắng. Họ tạ thầy một hộp Sumaco, khiến bữa ăn chiều
của chúng tôi có thể nói là thịnh soạn.
Cà
mên cơm đầy ăn với cá hộp giúp Phượng đủ sức ngồi dậy săn sóc con. Hai
đứa trẻ vẫn đuối, nhưng nhờ được uống nước cơm nên không đến nỗi bị lả
đi như hôm trước nữa.
Sáng hôm sau tôi trở lại chích thuốc cho bà giới chức; nhờ insuline làm
tan đường, bà đă ngồi dậy được, tỉnh táo hơn. Uy tín lang băm của tôi
gia tăng nhanh chóng, số thân chủ cũng gia tăng v́ sau 5 ngày ngồi bó rọ
phơi nắng, gần như tất cả mọi người đều cảm thấy mệt đuối, đau nhức,
nhiều người sốt, cảm, và ho.
Nỗi khổ tâm của tôi là trị bệnh không dược liệu; đem kinh nghiệm 14
tháng giúp bạn tù trị bệnh bằng phương pháp kháng bệnh, tôi chỉ dẫn mọi
người cách hô hấp, cánh tập trung tư tưởng để tự kỷ ám thị.
Nhờ hành nghề bác sĩ, khẩu phần của gia đ́nh tôi trở nên sung túc hơn
rất nhiều. Mỗi gia đ́nh vượt biển đều có thủ theo một vài thứ thực phẩm
khô, họ chia cho tôi một ít để thù lao bác sĩ.
Đến ngày thứ 7, nhờ được ăn no hơn vợ tôi đă b́nh phục và hai đứa trẻ
cũng tỉnh táo. Trưa hôm ấy chúng tôi gặp hoạn nạn: chiếc áo mái nhà của
tôi bị gió biển cuốn đi, vợ tôi lục giỏ t́m cái áo khác ra căng lều. Lần
này tôi có ư cột kỹ tay áo vào thành tầu.
Tối hôm đó, đang gục đầu trong thế ngủ ngồi tôi nghe như một biến chuyển
lớn đang xẩy ra. Giật ḿnh tôi thức dậy trong tiếng reo ḥ của mọi
người.
“Tới rồi. Thấy đất rồi.”
“Cảm ơn trời phật. Chuyến đi quá dài nhưng rồi cũng đến.”
Giọng quát của một giới chức, “Ngồi cả xuống; chạy tới, chạy lui, mất
thăng bằng lật tàu chết cả đám bây giờ.”
Mọi người ngoan ngoăn ngồi trở xuống, nhưng tiếng ồn ào vẫn không ngớt.
Người ta bàn tán, “Chắc là Mă Lai.”
“Có lẽ như vậy, v́ nó là ḥn đảo, chứ Thái Lan th́ đă thấy lục địa.
“Không chừng Nam Dương.”
“Rất có thể là Úc.”
Vợ
tôi nắm tay tôi bóp mạnh. Tôi nghe như những mừng vui của Phượng đang
được chuyền sang tâm hôn tôi mà không cần một lời nói. Mọi người mừng v́
chuyến hải hành 8 ngày đă đến đích. Cuộc hành tŕnh của riêng tôi và
Phượng đă kéo dài gần 4 năm, mà mỗi ngày là một cơn ác mộng bất tận cho
cả 2 chúng tôi cũng đang chấm dứt với chuyến đi này. Nỗi mừng của chúng
tôi, v́ vậy mà to lớn hơn tất cả. Chúng tôi mừng đến không nói được nên
lời, không ḥ reo được như mọi người. Tôi ngồi yên, không buồn chồm lên
nh́n ḥn đảo mà tàu đang tiến vào nữa. Niềm vui của tôi đă quá đầy từ
ngày bước chân xuống tàu rời bỏ quê hương địa ngục, trên những bằng
chứng xác nhận t́nh yêu tuyệt vời của Phượng đối với tôi. Không một
người bạn đồng thuyền nào thỏa măn bằng tôi.
Ông bạn ngồi cạnh gợi chuyện, “H́nh như ḥn đảo nhỏ quá.”
“Vâng,” tôi lơ đăng đáp.
“Không chắc đă có người trên đảo.”
“Vâng.”
Mũi tàu vẫn hướng vào ḥn đảo cô đơn trong khi niềm lạc quan trên tàu
lắng xuống. Khoảng cách thu ngắn dần làm mọi người thấy rơ kích thước
nhỏ bé của hải đảo. Nhưng giữa khoảng ngàn trùng của đại dương nhấp nhô
ḥn đảo kia vẫn là đất, vẫn bảo đảm vững vàng. Hơn nữa, nó cũng lớn tối
thiểu bằng 20 lần con tàu dài 15 thước, rộng 3 thước với 140 người trong
ḷng tàu.
Đa
số góp ư kiến nên ngừng lại đảo.
“Biết đâu bờ bên kia lại không có một làng chài lưới.”
“Ghé nghỉ ngơi một ngày, đi lại cho dăn gân; ngồi bó gối măi, mỏi quá.”
“Có thể t́m nước ngọt, đánh cá tăng thêm thực phẩm trước khi tiếp tục đi
nữa.”
Cuối cùng, những giới chức trên tầu quyết định cho tầu chạy một ṿng
quanh đảo để quan sát trước. Và đó là quyết định cuối cùng của họ với tư
cách chỉ huy chiếc tiểu hạm tử thần: mới chạy được nửa ṿng đảo, tàu
chạm đá ngầm, vỡ đáy, lật nghiêng qua 30 độ.
Phượng văng từ thành tàu bên này sang thành tàu bên kia, thằng Vinh tuột
tay mẹ, rơi thẳng xuống biển. Trên đà nghiêng của con tàu, tôi phóng
nhanh đến bên Phượng, trao vội bé Mai cho nàng và nhẩy xuống biển để chỉ
vừa kịp nắm tay đứa bé chưa đầy năm, theo nó ngụp vào một đợt sóng lớn.
Sóng đưa tôi và thằng Vinh vào gần bờ, và do đó tôi trở thành người đầu
tiên đặt chân lên ḥn đảo san hô thê lương, sau này biến thành nơi gởi
xác của nhiều người trong chúng tôi.
Việc làm đầu tiên của tôi là bồng thằng Vinh đưa lên cao để vợ tôi nh́n
thấy mà yên ḷng. Cách bờ khoảng 15 thước, mọi người nhốn nháo; tiếng
kêu khóc thật là thê thảm, nhiều người nhẩy xuống nước chạy vào bờ.
Sau khi bị vỡ đáy, con tàu mắc cạn đang từ từ trở lại thế thăng bằng,
mặc dù vẫn c̣n hơi nghiêng, nhưng người trên tàu không đến nỗi phải bám
cứng vào thành tàu để khỏi rơi xuống biển nữa.
Nhờ người coi chừng thằng Vinh, tôi lội xuống nước trở ra mạn tàu bồng
bé Mai, và xách gói hành lư khiêm tốn của chúng tôi, rồi dắt Phượng lên
đảo. Nhiều người khác cũng làm như chúng tôi; họ ĺa bỏ con tàu mà không
cần biết là đi đâu, nhắm mắt đưa chân, như 8 ngày trước rời bỏ quê hương
Việt Nam .
Đó
là sai lầm của chúng tôi. Ḥn đảo san hô khô cằn, lởm chởm, không dung
nạp chúng tôi. T́m được một chỗ bằng phẳng để ngồi xuống cũng đă khó chứ
chưa nói đến việc ngả lưng.
Sau gần một tiếng đồng hồ loay hoay t́m kiếm, tôi chọn được một hốc đá
tương đối rộng răi để định cư. Cái áo làm mái nhà đổi vai tṛ trở thành
tấm chiếu cho trẻ con ngồi.
“Đau đít quá ba ơi,” bé Mai nhăn nhó nói.
Tôi ẵm con lên, đặt nó ngồi trên bọc quần áo, rồi bảo Phượng, “Em coi
chừng con, anh đi quanh t́m xem có con ốc, con ṣ nào không.”
Tôi ngỡ ḿnh là người nhanh chân trong việc đi kiếm ăn, nhưng hơn chục
người khác cũng đă lom khom trong các hốc đá t́m kiếm như tôi. Cái may
của tôi là trong một kẹt đá nhỏ, tôi chụp được hai vợ chồng một chú tôm
hùm khá to, mỗi con khoảng hai kí.
Phượng reo mừng, “đồ biển sẵn thế này là không phải lo đói nữa.”
Phượng lầm, mà tôi cũng lầm. Đồ biển không sẵn như chúng tôi tưởng, hoặc
ít ra th́ đó cũng không phải là nguồn thực phẩm đủ cung cấp cho 140
người đói khát.
Tôi đi nhặt rác và rong biển về làm củi nướng tôm; tôi cũng t́m được một
mảnh ván nhỏ cho Phượng ngồi. Bữa ăn đầu tiên trên hoang đảo, cách t́m
thực phẩm, nướng và ăn bốc theo kiểu thượng cổ, vừa ngon lại vừa vui. Vợ
chồng, con cái chỉ ăn hết một con tôm, con thứ nh́ để dành.
“Em chưa thấy con tôm hùm nào lớn đến như vậy,” Phượng vừa chôn vỏ tôm
xuống cát vừa bảo tôi.
Mới 6 giờ chiều, mặt trời c̣n cao mà gió biển nghe đă lạnh; tôi lo lắng
bảo Phượng, “Có bao nhiêu quần áo em lấy mặc hết cho con. Cả em nữa.”
Gói hành lư được mở ra, tắp hết lên người. Mỗi đứa trẻ mặc 4 áo, 3 quần.
Phượng được 3 áo, 2 quần. Tôi mặc thêm cái sơ mi nửa ra ngoài bộ đồng
phục chưa thay từ ngày đi.
Gia đ́nh ông hàng xóm sát hốc đá nhà tôi định xuống tầu tránh lạnh nhưng
bị đuổi trở lên. Một số thanh niên tổ chức chiếm độc quyền cư ngụ trên
tầu. Họ cũng ngưng, không phát thực phẩm như trước nữa.
Đêm hôm đó một người đàn bà chết, có lẽ v́ quá lạnh. Chúng tôi xuống tầu
mượn được một cây xà beng và một cái búa để đục đá chôn người xấu số. Đó
là người đầu tiên và người cuối cùng được chôn. Lư do thứ nhất khiến
chúng tôi không chôn người chết nữa là v́ đục đá làm mồ là một công
tŕnh quá khó mà lại không hiệu quả. Lớp đá vụn lấp xác chết không chặt
được như đất nên chỉ một ngày sau mùi thối đă xông lên nồng nặc. Lư do
thứ nh́ chua chát hơn: người ta không muốn vùi đi mấy chục kí thịt của
người chết trong lúc tất cả đều đói.
Xác chết đầu tiên tôi thấy bị xẻ thịt là xác một thiếu nữ trắng trẻo,
xinh xắn. Tôi đang đi nhặt ốc th́ nh́n thấy xác cô, khuy áo bị cổi banh
ra, chỗ đôi nhũ hoa chỉ c̣n thịt lầy nhầy và mấy rẻo xương lồng ngực.
Một tiếng đồng hồ sau, tôi trở lại, cô đă bị lột truồng, bắp vế, bắp
chuối bị xẻo mất.
Tôi rùng ḿnh. Suốt 2 năm chinh chiến tôi cũng đă chứng kiến nhiều cái
chết ghê rợn do súng đạn gây nên, nhưng quả thật chưa một xác chết nào
làm tôi khiếp đảm hơn.
Thượng Đế ơi, người đă sinh ra con người như sinh vật khôn linh hơn mọi
sinh vật khác, sao người lại c̣n bày ra những thử thách trớ trêu đó để
làm ǵ? Để chứng minh là con người cũng không hơn ǵ loài cầm, loài thú
ư?
Tôi trở về hốc đá với khuôn mặt chắc phải vô cùng sầu thảm; nh́n tôi,
Phượng bảo, “Ḿnh đuối lắm rồi, để em đi kiếm thực phẩm thay ḿnh.”
“Em không đi đâu hết,” tôi gạt phăng.
Vợ
tôi nh́n tôi lo sợ; có thể Phượng thấy phản ứng của tôi không b́nh
thường, chưa bao giờ tôi gắt gỏng với nàng, ngay cả những lần nàng theo
bác phu xích lô đi khách. Quanh chúng tôi, người ta phát điên, người ta
đánh nhau chỉ v́ những chuyện không đâu. T́nh trạng tuyệt vọng, kinh
hoàng làm chúng tôi thành hốt hoảng. Có thể Phượng nghĩ tôi cũng đang có
những triệu chứng bắt đầu. Tôi an ủi vợ, “Anh không muốn em đi đâu hết.
Quanh chúng ta đang có trên 100 người mất tự chủ. Em phải ở cạnh anh.”
Thật ra tôi chỉ muốn tránh cho Phượng khỏi nh́n thấy xác người thiếu nữ
không vú, không đùi. Kéo đầu Phượng gục vào vai, tôi vỗ về, “Rồi mọi
chuyện sẽ khá hơn; thế nào chẳng có một thương thuyền đi qua đây.”
Tôi nói để mà nói, nhưng tôi nghĩ Phượng không mấy tin, không mấy quan
tâm đến những điều tôi nói.
Chúng tôi đă đói khát gần 1 tuần lễ; quanh bờ biển không c̣n một cái vỏ
hào nào nguyên vẹn. Người đầu tiên vừa đập vỡ con hào để lấy ruột, th́
chỉ vài phút sau đă có người đến đập lần thứ nh́, hy vọng vớt vát một
chút ǵ c̣n xót lại.
Đến tuần thứ nh́ không ai c̣n dấu diếm chuyện ăn thịt người nữa. Gần như
tất cả mọi người đều đă ăn thịt đồng loại. Tệ hơn là họ không chờ nạn
nhân chết hẳn mới xẻ thịt. Để thịt và ruột gan không lạnh tanh, họ xẻ
thịt những người đang thoi thóp, ngắc ngoải. Xương và đầu người chết bị
ném xuống biển, cám dỗ hàng bầy cá mập.
Nh́n những con cá hung hăn chồm vào đến tận bờ để chia phần thịt người,
tôi bàn với ông hàng xóm phương pháp bẫy cá mập. Chúng tôi đào một vũng
cạn, rồi lấy đá be bờ khá cao. Sườn vũng nước nghiêng vào bờ, bên trong
sâu hơn bên ngoài bờ biển.
Mượn cái đầu của một bà lăo vừa bị xẻ thịt, chúng tôi thả mồi chờ cá
mập; thời gian chờ đợi không lâu hơn 20 phút: theo đà sóng một con cá
mập nhỏ, khoảng trên dưới 40 kí, trườn vào bẫy.
Sóng rút ra, cá mập mắc cạn và chết ngay sau vài chục nhát búa và xà
beng của chúng tôi. Chúng tôi lôi cá lên cạn xẻ thịt; khoảng vài chục
người đến hôi món thịt cá mập. Việc xẻ thịt chưa xong, con cá mập thứ
nh́ đă lại trườn vào bẫy trước tiếng reo ḥ mừng vui của hơn 100 con
người đói khổ.
Thịt cá mập béo ngậy và tanh ŕnh, nhưng vẫn giúp chúng tôi tránh được
ăn thịt người, và cái bẫy cá mập của tôi trở thành nguồn cung cấp thực
phẩm khá dồi dào cho những nạn nhân mắc cạn.
Cái khổ của chúng tôi là trên đảo san hô không c̣n một thứ ǵ có thể sử
dụng thay củi nữa cả; một vài người liều lĩnh xách búa ra định bửa tầu
lấy gỗ, nhưng chỉ cần một phát súng bắn chỉ thiên của nhóm thanh niên
khỏe mạnh, ăn uống đầy đủ, lại có vơ khí, đang chiếm giữ con tàu, cũng
đủ làm những người liều nhất trở thành khôn ngoan, lui nhanh vào bờ.
Cầm miếng cá sống, vừa xệu xạo cắn, Phượng vừa hỏi tôi, “Ḿnh có c̣n tin
được câu người ta thường nói ‘trời xanh có mắt’ nữa không?”
Tôi thở dài. Nếu quả trời có mắt th́ cặp mắt đó đă nhắm lại từ 4 năm nay
rồi. Bé Mai chỉ c̣n là một cái xác nhỏ xíu, gầy ốm, thoi thóp níu vào
cuộc sống. Thằng Vinh khá hơn đôi chút, nhưng cũng nằm lả, đôi mắt gần
như không bao giờ hé mở.
Tôi nhai miếng cá trong miệng đến thành nước rồi cúi xuống mớm cho con.
Phượng thút thít khóc. Cũng như tôi, vợ tôi hiểu mạng sống của đứa con
gái chúng tôi thương yêu, nâng niu, đang tàn lụi dần và sẽ tắt hẳn, khi
gió biển, nắng cháy, và thiếu dinh dưỡng, cướp đi những sinh lực cuối
cùng.
Bé
Mai bỏ đi tối hôm đó. Ôm con trong tay tôi nghe hơi thở nó yếu dần, yếu
dần trước khi tắt hẳn. Cơ thể của đứa con yêu thương vẫn mềm mại nhờ
chút hơi ấm của t́nh phụ tử ủ ấp.
Tôi lặng đi ngồi ôm xác con trong gió biển cắt da; khoảng một tiếng đồng
hồ sau Phượng hỏi tôi, “Con có khá hơn không ḿnh?”
Tôi hiểu nghĩa câu hỏi này: Phượng muốn biết bé Mai đă chết chưa, nhưng
chữ “chết” ghê rợn không phát ra được trên đôi môi người mẹ. Tôi lặng
thinh để vợ tôi ngỡ là tôi đă thiếp đi trong ṃn mỏi. Nhưng rồi tôi
thiếp đi thật; sức chống đỡ của cơ thể chỉ có giới hạn. Giữa những hoàn
cảnh phi lư nhất, thể chất vẫn giữ nguyên những đ̣i hỏi b́nh thường của
nó. Ôm xác con trong tay, ngồi giữa một cô đảo Thái B́nh Dương, tôi ngủ
ngon lành.
Tôi bị mặt trời nhiệt đới đánh thức; mở mắt dạy trong ánh nắng chói ḷa,
tôi hốt hoảng nhận ra là bé Mai không c̣n nằm trong tay tôi nữa. Phượng
cũng không thấy đâu cả. Tôi cất tiếng gọi vợ, tiếng sau lớn hơn tiếng
trước, những tiếng cuối cùng trở thành tiếng gào kinh hoảng.
Những người chung quanh nh́n tôi; cặp mắt họ không thiện cảm, nhưng cũng
không ác cảm, mà chỉ là những cập mắt vô can mất hết khả năng xúc động.
Cái khổ đau, bất hạnh của tôi, tôi cứ tự gánh lấy. Phần riêng của họ
cũng đă quá lớn, họ không thể chia xẻ thêm với ai chút ǵ nữa cả.
Tay ẵm thằng Vinh, tôi phóng nhanh xuống bờ biển vừa chạy quanh đảo, vừa
gọi Phượng. Vợ tôi ngồi xẹp trên một phiến đá, vẻ mặt sầu khổ. Ôm chầm
lấy vợ, tôi hỏi, “Em đi t́m con?”
Vợ
tôi không nói được một tiếng nào cả.
“Họ đă xẻ thịt bé Mai?” Phượng gật đầu rồi gục vào vai tôi thút thít
khóc; tôi lặng đi, tê tái.
Nguyên ngày hôm đó vợ chồng chúng tôi không nói thêm với nhau một câu
nào nữa. Trước những đổ vỡ thương đau toàn diện, chúng tôi không c̣n khả
năng khóc, than.
Sáng hôm sau, sau một ṿng đi t́m thực phẩm thất bại như từ nhiều ngày
nay, tôi trở về hốc đá và t́nh cờ khám phá ra nguyên nhân giúp bé Vinh
c̣n tương đối mạnh khỏe: Phượng đang cho con bú. Tôi ngạc nhiên v́ từ
trước đến giờ Phượng không hề làm việc đó. Cả bé Mai cũng bú sữa ḅ từ
khi mới lọt ḷng.
Phượng bối rối nh́n tôi, trong lúc tôi nh́n bé Vinh: môi đứa bé đỏ ḷm.
Tôi kéo vú Phượng ra để thấy một vết cắt c̣n mới trên đầu vú. Tôi t́m
thấy nhiều vết cắt khác ở đầu ngón tay, ở cổ tay người mẹ khốn khổ. Thở
dài, tôi cúi đầu. Phượng đang trút tàn lực sang để nuôi một mầm sống.
Việc làm vô cùng đáng kính phục đó chắc chắn sẽ làm tôi trở thành góa
bụa sớm hơn.
Dĩ
nhiên tôi không ngăn cản, cũng không phiền trách ǵ Phượng. Điều độc
nhất tôi có thể làm là cố gắng hơn nữa trong việc t́m kiếm thực phẩm để
nuôi Phượng và bé Vinh, nhưng số người đói khát th́ đông mà số thực phẩm
lại giới hạn nên gần như chúng tôi không c̣n t́m ra bất cứ một thứ ǵ,
dù chỉ là cỏ, là cây, để nhai trong miệng.
Bốn ngày sau ngày bắt gặp Phượng cho con bú bằng máu, tôi t́m được một
con của khá lớn. Phượng ăn gượng gạo rồi lại nằm ngay. Vợ tôi đuối đến
mức tôi phải xé từng miếng thịt cua, đút vào miệng cho nàng.
Suốt tuần sau, tôi chỉ t́m được vài con ốc. Nh́n những triệu chứng sắp
chết của vợ, tôi nghe đứt ruột. Tôi không dám đi kiếm thực phẩm xa nữa,
sợ người ta đến ăn thịt Phượng.
Hai ngày sau, đang nửa mơ, nửa tỉnh, tôi chợt nghe nhiều tiếng súng;
tiếp theo là tiếng reo ḥ. Bàng hoàng choàng dậy, tôi nh́n theo hướng
nh́n của mọi người và thấy một chiếc tàu đang từ từ tiến lại.
Tim tôi ngừng đập; cuối cùng trời vẫn c̣n có mắt, chúng tôi sắp được cứu
sống, và tôi vẫn c̣n Phượng, c̣n người vợ mà trong hoạn nạn tôi thấy
t́nh yêu trở thành to lớn hơn, bền chặt hơn. Tôi sẽ lại được mê mệt,
được khổ sở với cặp mắt đa t́nh của Phượng.
Trong tiếng reo ḥ của những người đồng cảnh ngộ, tôi cúi xuống thủ thỉ
bảo vợ, “Hôm trước em hỏi anh có c̣n tin là ‘trời xanh có mắt nữa
không’; bây giờ anh trả lời em là anh tin. Anh tin cuối cùng rồi ông
trời vẫn có mắt.”
Nhưng tôi đă lầm. Đối với những kẻ bất hạnh, vô phước như tôi, ông trời
(nếu có ổng) đă vĩnh viễn nhắm mắt, quay mặt đi.
Con tầu tôi đang nh́n theo là một ngư thuyền của Đài Loan. Họ neo xa bờ
chừng 2 cây số, rồi cho ghe nhỏ vào chở người đại diện của chúng tôi ra
thương lượng. Cuộc thương lượng, nói trắng ra chỉ là một cuộc trả giá.
Người đại diện trở về cho chúng tôi biết tầu Trung Hoa đ̣i một số vàng
lớn mới chịu cứu chúng tôi. Số người có vàng đề nghị chia số người Trung
Hoa đ̣i hỏi trên đầu người; những kẻ trắng tay như tôi ngồi lặng thinh,
dự thính.
Chiều hôm ấy người đại diện của chúng tôi trở ra ngư thuyền Trung Hoa
với một phản đề nghị. Cuộc trả giá kéo dài cho đến tối, và ông ta ngủ
lại trên tầu đánh cá. Sáng hôm sau ông trở lại với 3 người Tầu, và bắt
đầu cuộc ghi danh, góp vàng.
Những người có vàng để góp lần lượt được xuống ghe máy để ra tàu trước
cặp mắt thèm thuồng của chúng tôi. Khoảng xế chiều việc đưa những người
góp vàng ra tàu hoàn thành. Người Trung Hoa chở vào cho chúng tôi một
thùng cá và bảo, “Các anh ăn uống tạm tối nay. Sáng mai chúng tôi sẽ vào
chở tất cả ra tàu.”
Th́ ra họ chỉ muốn làm khó dễ để lột một số vàng của những người có tài
sản. Sáng hôm sau toàn bộ chúng tôi được chở ra tàu; một thủy thủ Trung
Hoa giúp tôi bồng bé Vinh, trong lúc tôi bồng Phượng xuống ghe.
Yếu đuối, tôi ngă mấy lần, Phượng mở mắt nh́n tôi, cặp mắt t́nh tứ, đắm
đuối ngày xưa, giờ này đă mất thần.
Xuống tầu, tôi xin một ly sữa, đút cho Phượng, nhưng vợ tôi không c̣n
nuốt được nữa. Tôi biết cơ thể nàng đă mất hết hydrate; giải pháp độc
nhất c̣n lại là nuôi bằng nước biển, nhưng làm ǵ có thứ đó trên một ngư
thuyền.
Phượng lịm dần và hơi thở thật sự tắt hẳn vào đêm hôm đó. Xác nàng bị
chuồi xuống biển theo h́nh thức thủy táng.
o0o
TÔI DỨT CÂU CHUYỆN vào lúc 11 giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 2004, rồi
bảo thằng Vinh, “Ba hứa ngày con học xong, ba sẽ kể lại câu chuyện về mẹ
con cho con nghe; ba đă thực hiện lời ba hứa.”
Nó
bước đến trước ghế tôi ngồi, quỳ xuống, gục đầu lên đùi tôi, “Ba đau khổ
nhiều quá,” lời nó nghẹn lại. “Con thương ba.”
Tôi vuốt tóc nó, “ba thương con.”
“Con muốn vinh danh mẹ,” thằng Vinh bảo tôi. Năm đó nó 26, vừa ra trường
thuốc Austin , và đang tập sự tại nhà thương Memorial Hertman, Houston ,
nơi tôi làm việc.
“Bằng cách nào?” tôi hỏi nó.
“Con muốn về Việt Nam để cùng bác sĩ Nguyễn Đan Quế tranh đấu giải thể
chế độ cộng sản dă man đă giết mẹ con, giết chị Mai, và làm ba buồn khổ
suốt cuộc đời.”
“Môi trường tranh đấu tại hải ngoại thuận lợi hơn môi trường quốc nội,”
tôi bảo Vinh. “ Tiếng nói của con sẽ lớn hơn, v́ có một đối tượng rộng
hơn, quyền hạn hơn.”
Nó
nghe lời tôi, và giờ này bác sĩ Trần Phượng Vinh, con của bác sĩ Trần
Quang trở lại trường đại học; môn học mới của nó là điện ảnh.
Họa sĩ Thương Thương, hôn thê của nó đă vẽ xong từ năm ngoái bức tranh
quảng cáo cuồn phim đầu tay ĐÔI MẮT PHƯỢNG của tài tử kiêm đạo diễn
Phượng Vinh.
Nó
đóng vai trung úy quân y của Sư Đoàn Nhẩy Dù, trung úy Trần Quang.
Hết
|