Tôi đă dự định viết ra đây từng bước nhỏ sự
phát triển của tâm hồn ngoan đạo này mà tôi đă mang từ bóng đêm
u tối ra như với mục đích duy nhất để tôn quư và yêu thương. Cám
ơn Thượng Đế đă giao phó cho tôi nhiệm vụ.
Câu chuyện khởi đầu đă đúng hai năm sáu tháng. Hôm đó tôi đi
Chaux-de-Fonds về, có con bé lạ mặt vội vă tới t́m tôi để dẫn đi
thăm một bà cụ sắp chết cách đấy bẩy cây số. Xe c̣n thắng ngựa,
tôi bảo con bé lên ngồi sau khi với cây đèn băo mang theo, e
rằng chắc phải đến đêm mới xong việc.
Tôi vẫn tự cho là ḿnh thông thạo vùng này, vậy mà vừa quá khúc
rẽ sau sơn trại Saudraie, con bé chỉ cho tôi một con đường ngang
tôi chưa từng phiêu lưu rẽ vào. Tuy nhiên quá đó hai cây số,
phía tay trái, tôi nhận ra một cái hồ có phong cảnh huyền bí mà
hồi nhỏ tôi đă đôi lần tới trượt băng. Khoảng mười lăm năm nay
đă không trở lại v́ không có mục vụ nào ở đây. Có ai hỏi có lẽ
tôi cũng không c̣n biết hồ ở đâu, lại cũng không nghĩ đến nữa
nên chi khi bất thần thấy hồ sáng chói trong ráng chiều huy
hoàng tôi tưởng như thấy lại cảnh cũ từ một giấc mơ.
Con đường chạy dọc theo con sông nhỏ một quăng, để cắt ngang
cuối rừng và men theo một băi đầm lầy. Chỗ này th́ chắc chắn là
tôi chưa bao giờ đặt chân tới.
Mặt trời từ từ lặn và tôi chạy xe trong bóng hoàng hôn đă một
lúc khá lâu, sau cùng con bé chỉ cho tôi bên đồi một căn nhà
tranh tưởng như bỏ hoang nếu không có làn khói mảnh bốc lên, màu
xanh trong bóng râm chuyển thành màu vàng óng của nắng chiều.
Tôi buộc ngựa vào cây táo gần nhà rồi theo chân con bé bước vào
một căn pḥng tối, nơi bà cụ vừa măn phần.
Tôi sững người v́ quang cảnh trang trọng, cũng như sự tĩnh lặng,
và vẻ trang nghiêm của giây phút. Có người đàn bà dáng c̣n trẻ
đang quỳ bên giường. Con bé người làm mà tôi đă tưởng là cháu bà
cụ bước tới cuối pḥng châm ngọn đèn khói um, rồi lặng lẽ tới
đứng bên giường.
Trên đường tới đây, tôi đă gợi con bé mà chỉ được trả lời vài
câu vắn tắt.
Người đàn bà quỳ bây giờ đứng dậy. Bà không phải người nhà như
tôi đoán, mà chỉ là chỗ hàng xóm tốt bụng, bạn vớ́ bà cụ, khi
được báo tin là bà cụ sắp đi đă sốt sắng sang giúp đỡ và t́nh
nguyện ở lại canh thi hài. Bà bảo bà cụ đi nhẹ nhàng không đau
đớn ǵ. Chúng tôi bàn tính về tang lễ cho người măn phần. Trong
miền đất hẻo lánh này, nhiều lần tôi đă phải tự tay cắt đặt mọi
chuyện cho tang gia. Tôi thoáng thấy không yên tâm v́ phải giao
phó căn nhà dù nghèo hèn này cho người hàng xóm và con bé người
làm. Đây chỉ là mái tranh xơ xác, nhưng biết đâu lại chẳng có
bảo vật cất giấu trong xó xỉnh nào. Lo vậy, nhưng thật ra tôi
cũng không làm ǵ hơn được. Tôi hỏi xem ai là người thừa kế.
Bà hàng xóm bấy giờ cầm cây nến bước tới góc nhà, và tôi nhận ra
lờ mờ có người ngồi xổm bên bếp lửa, mớ tóc dày che hết khuôn
mặt. Bà giải thích:
“Tôi nghe đứa ở kể th́ con bé mù này là cháu bà cụ; h́nh như gia
đ́nh chỉ có vậy, vỏn vẹn hai bà cháu. Chắc rồi phải đưa nó đi cô
nhi viện thôi. Nếu không, biết ai trông nó bây giờ.”
Tôi lúng túng thấy bà lớn tiếng bàn bạc về số phận con bé ngay
trước mặt nó, sợ những lời sống sượng làm nó buồn ḷng. Tôi nhỏ
nhẹ nhắc khéo bà nên có chút tế nhị:
“Chúng ḿnh khẽ chứ. Để cho cô bé ngủ.”
“Tôi không nghĩ nó ngủ đâu; chẳng qua là một con bé đần độn; nó
không biết nói, mà cũng không hiểu ǵ. Ở đây từ sáng đến giờ,
tôi chưa hề thấy nó cựa quậy. Mới đầu tôi tưởng nó điếc; nhưng
theo người làm th́ không phải vậy, mà chỉ tại bà cụ cũng điếc,
từ lâu có mở miệng chỉ để ăn uống nên không bao giờ nói với nó
cũng như với bất cứ ai.”
“Không biết nó mấy tuổi rồi nhỉ?”
“Chắc độ mười lăm. Thật ra tôi cũng không biết ǵ hơn Mục sư.”
Thoạt tiên tôi không hề có ư nghĩ lănh con bé mồ côi về nuôi;
nhưng sau khi cầu kinh xong- đúng hơn, ngay khi quỳ giữa con bé
người làm và bà hàng xóm cầu nguyện- tôi bỗng thấy Chúa đă đặt
trước tôi trách nhiệm này, trốn tránh th́ quả là hèn nhát. Đọc
xong bài kinh th́ ư tôi đă quyết. Tôi sẽ mang con bé đi ngay đêm
nay, tuy tôi chưa có giải pháp dài hạn nào cũng như chưa nghĩ ra
ai để gửi nuôi giùm. Tôi dừng lại ngắm người chết vài giây.
Khuôn mặt bà cụ như say ngủ, cái miệng nhăn nhúm khép kín như
khư khư không tiết lộ bất cứ chuyện ǵ. Rồi quay lại con bé mù,
tôi cho bà hàng xóm biết ư định của tôi.
Bà ta nói:
“Tốt nhất là dẫn con bé ra khỏi đây trước khi phu đ̣n ngày mai
tới chở xác bà cụ đi.”
Và tất cả chỉ có thế. Thật là dễ dàng. Biết bao chuyện sẽ giản
dị biết mấy, nếu ta không tưởng tượng ra những chướng ngại nọ
kia. Từ thủa ấu thơ, bao nhiêu việc ta đă không làm được, chỉ v́
người xung quanh cứ nhắc đi nhắc lại là ta không đủ sức làm.
Con bé mù để tôi dẫn đi như một cục thịt không chủ động. Khuôn
mặt nó đều đặn dễ coi, có thể gọi là xinh xắn, nhưng hoàn toàn
ngu độn. Tôi tới ổ rơm chỗ nó thường nằm dưới gầm cầu thang lối
lên vựa lúa nhặt tấm mền của nó.
Bà láng giềng tỏ ra nhanh nhẩu và giúp tôi quấn mền lên người
con bé để pḥng đường xá ban đêm lạnh lẽo. Sau khi thắp chiếc
đèn băo tôi đánh xe lên đường, cảm thấy cái bọc thịt vô hồn tựa
vào chân tôi, sự sống chỉ mơ hồ hiện hữu nhờ cái thân nhiệt tối
tăm của nó. Dọc đường có lúc tôi thắc mắc là nó thức hay ngủ. Mà
ngủ trong giấc ngủ tối tăm nào. Tội nghiệp, đời sống của nó thức
hay ngủ nào có khác ǵ. Lạy Chúa, trong tấm h́nh hài tục lụy này
biết đâu chả có một linh hồn bị giam giữ, đang khao khát mong
Chúa ban cho chút ơn lành. Xin Chúa cho phép con được lấy t́nh
thương mà mang cái linh hồn tội nghiệp này ra khỏi đêm tối hăi
hùng…
Tôi muốn ghi lại sự việc hết sức trung thực, nên không dám bỏ
qua sự tiếp đón đáng trách của vợ con khi tôi về đến nhà. Vợ tôi
rất tốt bụng; ngay lúc đen tối nhất của đời sống vợ chồng, chưa
bao giờ tôi phải hồ nghi ḷng tốt của nàng. Nhưng ḷng từ bi của
nàng không thích bị bất ngờ. Nàng ngăn nắp thứ tự, và với bổn
phận thường nhật, nàng không thái quá mà cũng chẳng bất cập.
Ḷng từ thiện của nàng đắn đo cân nhắc, hầu như t́nh thương cũng
có giới hạn. Thật ra vợ chồng tôi chỉ có điểm này là không tương
đồng…
Đêm đó mới thấy tôi mang con bé mồ côi về, nàng phản đối tức
thời và buột ra miệng:
“Anh lại hứng lấy chuyện ǵ đây?”
Như thường lệ khi hai vợ chồng có điều ǵ phải cắt nghĩa với
nhau, tôi trước hết đuổi con cái ra khỏi pḥng trong khi chúng
đang đứng nh́n, miệng há hốc v́ ṭ ṃ và ngạc nhiên. Chao ôi, sự
tiếp đón quá khác biệt với điều tôi mong đợi. Chỉ có con
Charlotte, con gái út cưng của tôi lúc đầu đă vỗ tay reo mừng v́
có chuyện ǵ mới đang cục cựa trong xe bố. Nhưng nó mừng không
lâu. Anh chị nó bị mẹ uốn nắn từ tấm bé, đă làm nó làm nó cụt
hứng tức th́.
Có lúc quang cảnh nhà tôi vô cùng hỗn loạn. Vợ tôi và trẻ con
không biết con bé bị mù nên ngạc nhiên thấy tôi đặc biệt gượng
nhẹ khi dẫn nó vào. Rồi đến lượt chính tôi ngỡ ngàng khi con bé
cất tiếng rên lúc tôi buông tay nó ra. Âm thanh nó phát ra không
giống tiếng người, mà ăng ẳng như chó con. Lần đầu bị kéo ra
khỏi cái thế giới cảm nhận chật hẹp quen thuộc, nó khuỵu gối
xuống; nhưng khi tôi đẩy ghế tới cho nó, th́ nó lại trườn xuống
đất như chưa từng được ngồi bao giờ; tôi bèn dẫn nó tới gần ḷ
sưởi, và khi được ngồi xổm và tựa vào tường như ở nhà bà già,
th́ nó thư giăn đôi chút. Lúc trên xe, nó đă tuột xuống sàn xe,
và suốt cuốc xe đă co ro tựa vào chân tôi. Vợ tôi vội bước lại
giúp tôi, phản ứng của nàng bao giờ cũng tốt lành phúc hậu; chỉ
có điều sự suy tính luôn luôn đối kháng và thường đánh bại trái
tim nàng. Đặt con bé mù ngồi ngay ngắn xong, nàng quay lại hỏi
tôi:
“Anh tính làm ǵ với cái của này?”
Hai tiếng “của này” làm tôi rùng ḿnh, và tôi phải khó khăn mới
không nổi giận. Tuy nhiên nhờ suốt dọc đường suy ngẫm ân Chúa,
tôi đă giữ được b́nh tĩnh. Tôi đứng thẳng, nh́n vợ con quây quần
trước mặt. Một tay đặt trên trán con bé mồ côi, tôi nói với tất
cả trang trọng:
“Hôm nay, anh mang con chiên lạc về chuồng.”
Nhưng Amélie không bao giờ chấp nhận là trong lời Chúa dạy lại
có những chuyện không thực tiễn như vậy. Biết nàng sắp kỳ kèo
này nọ, tôi ra hiệu cho thằng Jacques và con Sarah, hai đứa con
lớn đă quen cảnh bố mẹ căi nhau, dẫn hai đứa em nhỏ ra khỏi
pḥng. Thấy vợ tôi vẫn c̣n ngần ngại và vô cùng bực tức v́ con
bé mù vẫn c̣n đó, tôi b́nh tĩnh nói:
“Em khỏi phải giữ miệng. Con bé tội nghiệp này không hiểu ǵ
đâu.”
Amélie khai hỏa rằng tất nhiên nàng đâu có điều ǵ để kỳ kèo
-câu nhập đề thường lệ cho những cằn nhằn dai dẳng tiếp theo- và
nàng chỉ việc phục tùng như mọi khi về những chuyện tôi bày vẽ
ra, dù có không thực tiễn và trái khoáy đến đâu. Tôi đă nói ở
trên là tôi chưa hề nghĩ ra giải pháp dài hạn cho đứa bé. Thật
ra tôi chưa có ư định lănh nuôi nó. Có thể nói, ư kiến này chính
Amélie đă gieo vào đầu tôi, khi nàng hỏi tôi không nghĩ là nhà
đă chưa đủ đông hay sao. Nàng trách tôi là chuyện ǵ cũng tự ư
tiến tới mà không hề nghĩ đằng sau vợ con có chống đối hay
không, rằng cứ phần nàng th́ năm mặt con c̣n hiếm hoi nỗi ǵ,
rằng sanh đến út Claude (thằng bé nằm trong nôi nghe nhắc đến
tên bỗng khóc ré lên), nàng đă kiệt sức.
Lúc nàng bắt đầu cằn nhằn, tôi toan nhắc lại đôi lời Chúa dạy từ
tâm can đang dâng lên tới miệng, nhưng lại đổi ư v́ thấy khó coi
chuyện núp uy kinh thánh trong vụ căi vă này. Đến khi nàng nhắc
đến nỗi mỏi ṃn v́ con, tôi khựng lại. Thú thực đă nhiều lần
trong đà yêu thương thiếu tiết độ, tôi đă để cho vợ phải gánh
vác hậu quả nặng nhọc của luyến ái vợ chồng không suy tính. Tuy
nhiên lời vợ cằn nhằn lại soi sáng cho tôi về bổn phận của ḿnh.
Tôi bèn nhẹ nhàng năn nỉ nàng, xin nàng hăy xét xem, vào địa vị
tôi, nàng có thể nào nhẫn tâm bỏ rơi một sinh linh không nơi
nương tựa; tôi nói thêm rằng tôi không coi nhẹ gánh nặng cho gia
đ́nh khi c̣n phải săn sóc con bé tật nguyền này, và tôi chỉ tiếc
rằng chính tôi không thể tiếp sức với nàng nhiều hơn. Sau cùng
tôi gắng hết sức hoà giải với nàng, van xin nàng đừng đổ lên đầu
con bé vô tội nỗi bực ḿnh mà nó không trách nhiệm. Tôi cũng
nhắc nàng con Sarah đă khôn lớn có thể giúp việc lặt vặt, c̣n
thằng Jacques không c̣n bé bỏng nữa, đă có thể tự lo liệu lấy.
Tóm lại, Chúa đă giúp tôi t́m ra những lời lẽ thống thiết để
thuyết phục vợ chấp nhận cái trách nhiệm mà tôi tin rằng tự nàng
cũng đă tự nguyện chấp nhận nếu cho đủ th́ giờ suy nghĩ, và
thiện chí của nàng không bị đối xử một cách đột ngột.
Chuyện tưởng đă xong, và vợ tôi như dịu xuống bước lại gần con
bé; nhưng sau khi cầm đèn ngắm nghía, nàng bỗng giăy nảy, cơn
giận mới nguôi lại bùng cháy lại khi khám phá ra con bé bẩn thỉu
một cách ghê tởm không lời nào tả xiết. Nàng tru tréo:
“Sao mà nó có thể dơ dáy đến thế này. Khiếp quá. Anh có lấy bàn
chải mà chải quần áo đi không? Không, đừng chải ở đây. Anh ra
ngoài sân mà chải. Lạy Chúa. Rồi lại lây hết sang con ḿnh. Trên
đời tôi không gớm ǵ bằng gớm chấy rận.”
Quả thật con bé mồ côi chấy rận đầy ḿnh. Nghĩ đến lúc nó ngồi
co ro ôm chân tôi trên xe, tôi bỗng thấy gớm. Mấy phút sau, tắm
rửa kỳ cọ xong, tôi trở lại pḥng thấy vợ tôi rũ rượi trên ghế
bành, hai tay ôm đầu mà khóc nức nở.
Tôi nhẹ lời an ủi:
“Thực t́nh, anh không ngờ lại đem đến cho em một thử thách nặng
nề như vậy. Thôi cũng đă khuya rồi, mà cũng không thấy rơ nữa.
Em bỏ đó đi. Đêm nay anh sẽ thức canh lửa, và để nó ngủ tạm
ngoài này. Mai anh sẽ cạo đầu nó rồi tắm rửa cho nó sạch sẽ. Để
nó tươm tất hơn chút đỉnh rồi em hăy đụng tới nó.” Tôi năn nỉ
nàng đừng nói chuyện chấy rận với tụi trẻ.
Đă đến giờ ăn tối. Con bé mà vú già Rosalie lườm nguưt trong khi
dọn ăn cho mọi người, vồ lấy chén cháo tôi mang cho nó và ăn lấy
ăn để như chết đói đă lâu. Suốt bữa ăn không ai nói một câu. Tôi
muốn kể đầu đuôi câu chuyện cho tụi trẻ, để chúng xót thương mà
có chút cảm t́nh với con bé tật nguyền Chúa đă trao cho chúng
tôi. Nhưng tôi ngồi yên, sợ khơi chuyện lên lại làm vợ bực ḿnh.
Mọi người như phải vờ quên đi sự việc, tuy đó lại là mối bận tâm
chính.
Tôi vô cùng cảm động khi khoảng độ một giờ sau, ai nấy đă lui về
pḥng và Amélie đă để tôi lại một ḿnh, bé Charlotte mặc áo ngủ
chân đất rón rén mở cửa bước trở ra nhà ngoài. Bé tới ôm chặt cổ
bố, và th́ thầm vào tai bố:
“Con quên không hôn bố trước khi vào giường.”
Rồi chỉ con bé mù đang ngồi bên ḷ sưởi, Charlotte hỏi:
“Con hôn chị ấy nhé.”
Dẫn Charlotte về pḥng, tôi nói với con:
“Mai bố sẽ cho con hôn chị ấy. Bây giờ để cho chị ấy ngủ.”
Tôi trở lại ghế ngồi đọc sách, và soạn bài giảng cho tuần tới.
Tôi nhớ lúc đó tôi nghĩ là con Charlotte có t́nh hơn mấy đứa
lớn. Nhưng nghĩ lại, con tôi ở tuổi này, đứa nào cũng thế, kể cả
thằng Jacques bây giờ lạnh lùng dè dặt là vậy.
o0o
Ngày 27 tháng Hai.
Đêm qua tuyết vẫn rơi nặng. Trẻ con nao nức, hy vọng tuyết sẽ
lấp cửa chính và chúng có dịp leo cửa sổ để ra vào. Quả thật,
sáng nay tuyết đă phủ kín cửa chính, và chúng tôi phải dùng lối
nhà giặt để ra ngoài. Hôm qua tôi đă lo cho dân làng dự trữ
lương thực và các nhu yếu phẩm khác, chắc chắn sẽ bị tuyết cô
lập một thời gian. Đây không phải là lần đầu tiên làng bị cô lập
v́ thời tiết, nhưng tôi nhớ chưa bao giờ tuyết lại dầy đến thế.
Âu cũng là dịp tốt để tôi tiếp tục công việc viết lách phải bỏ
dở hôm qua.
Tôi đă viết ở đoạn trên là khi mang đứa bé tật nguyền về, tôi
không nghĩ nhiều đến chuyện cho nó ở vào đâu. Tôi biết vợ sẽ rầy
rà, và tôi cũng dư biết ḿnh nhà cửa không rộng răi, mà phương
tiện cũng không dồi dào. Như thường lệ, tôi đă hành động v́
nguyên tắc cũng như v́ bản tính trời sinh, mà không nghĩ đến tốn
kém (nghĩ như vậy là đúng tinh thần Phúc Âm). Nhưng mặt khác lại
là ḿnh đă ỷ lại vào Phúc Âm mà đổ gánh nặng lên vai người khác.
Rồi tôi nhận ra là đă đẩy cho vợ một gánh nặng, nặng đến nỗi tôi
cảm thấy hổ thẹn.
Buổi sáng sau hôm đó, tôi hết sức giúp nàng cạo đầu cho con bé
mù, việc mà vợ tôi vừa làm vừa ghê tởm. Nhưng c̣n tắm rửa kỳ cọ
cho nó, th́ vợ tôi lại phải làm một ḿnh. Thế là việc cực nhọc
đă không đến phần ḿnh. Tuy nhiên Amélie không c̣n cằn nhằn nữa.
Tôi nghĩ nàng đă suy nghĩ suốt đêm, và đă chấp nhận nhiệm vụ mới
này. Có lúc nàng c̣n tỏ vẻ thích thú, và mỉm cười khi sửa soạn
xong cho con bé. Nàng lấy chiếc mũ trắng đội cho nó để che cái
đầu trọc vừa bôi đầy thuốc mỡ. Nàng lấy quần áo cũ của Sarah để
thay cho nó, c̣n mớ rẻ rách nó mặc lúc tới th́ quẳng vào lửa đốt
đi. Charlotte chọn tên Gertrude cho con bé mù, và cả nhà đồng ư
v́ thật ra không ai biết tên thật của nó, mà chính con bé chắc
cũng không biết. Nó chắc chỉ nhỏ hơn con Sarah chút đỉnh, quần
áo năm ngoái của Sarah nó mặc vừa in.
Tôi phải ghi nhận là đă thất vọng ê chề trong những ngày đầu. Sự
lạc quan khi khi khởi sự dạy dỗ Gertrude đă phải điều chỉnh lại
nặng nề trước sự thật. Nét mặt ngu độn thờ ơ, không một chút xúc
động hay giao cảm, làm thiện chí của tôi phải nguội đi cho đến
gốc. Con bé suốt ngày ngồi bên ḷ sưởi, lúc nào cũng sẵn sàng
chống đối, và đanh mặt lại khi nghe thấy tiếng nói hay có ai lại
gần; nét mặt nó nếu không vô hồn th́ thù nghịch; có ai gọi đến
th́ nó rên rỉ, gầm gừ như con thú. Nó chỉ hết hờn giận khi tới
bữa. Tôi tự tay cho nó ăn, và khi ăn nó chồm tới như một con vật
bỏ đói lâu ngày, trông thật vô cùng thảm thương.
Vẫn biết t́nh thương sẽ đem lại t́nh thương, nhưng sự khước từ
ĺ lợm của tâm hồn đối nghịch này có lúc làm chính tôi cũng thấy
chán nản. Thú thật, sau mười ngày, tôi bắt đầu ngă ḷng. Thậm
chí có lúc không c̣n tha thiết đến nỗi tôi hối tiếc nhiệt tâm
ban đầu, và ân hận đă đem nó về nuôi.
Lại c̣n chuyện trêu ngươi này, là vợ tôi có phần khoái chí với
những cảm nghĩ tiêu cực tôi không giấu nổi; nàng h́nh như tận
tâm săn sóc con bé hơn khi thấy nó đă trở thành gánh nặng cho
chính tôi và làm tôi ân hận đă mang nó về gia đ́nh này.
Đó là t́nh trạng của tôi khi anh bạn bác sĩ Martins từ làng Val
Travers, nhân đi thăm bệnh trong vùng bỗng ghé lại chơi. Chăm
chú nghe tôi kể, mới đầu anh rất ngạc nhiên v́ chỉ có mù mà con
bé chậm phát triển đến thế. Tôi cho anh hay là không những
Gertrude mù mà chỉ có bà săn sóc, bà cụ lại điếc nặng nên không
bao giờ tṛ chuyện ǵ với nó. Con bé sống trong một môi trường
trống rỗng bất thường. Anh thuyết phục tôi là trường hợp như
vậy, thất vọng là sai; lư do là tôi đă không biết cách xử lư.
Anh bảo:
“Anh như người muốn xây nhà mà không chịu đắp nền. Anh hăy h́nh
dung cái tâm hồn này như một khoảng hỗn mang, những mấu chốt sơ
đẳng nhất cũng chưa xác định. Bắt đầu, anh hăy cột những cảm xúc
thật cơ bản sẵn có như sờ mó như ăn uống thành một bó, và móc
vào đó một từ, một âm, như một cái nhăn nhỏ. Phải lập đi lập lại
nhiều lần, và bắt nó nói theo.
“Cốt nhất là đừng nóng ruột. Giữ giờ giấc thật đều đặn khi dạy
nó. Mà mỗi buổi học cũng đừng quá lâu… “
Sau khi giảng giải tận t́nh phương pháp giáo dục mới, anh nói
thêm:
“Thật ra không có ǵ là ảo thuật. Phương pháp này không phải tôi
mới phát minh ra, mà người ta đă áp dụng nhiều rồi. Anh nhớ
không, hồi học chung ban Triết với nhau, nhân vụ Condillac, tụi
ḿnh đă được các thầy kể cho nghe một câu chuyện tương tự…”
Anh như nghĩ lại, rồi nói tiếp:
“Cũng có thể về sau tôi mới đọc được chuyện ấy trong một tạp chí
tâm lư học… nhưng không sao, quan trọng là câu chuyện đă làm tôi
rất chú ư, thậm chí c̣n nhớ tên cô gái tội nghiệp, tật nguyền
c̣n nặng hơn Gertrude nhiều, đă câm lại c̣n điếc. Câu chuyện xảy
ra vào thế kỷ trước. Một bác sĩ tại một quận bên Anh Cát Lợi,
tôi quên mất địa danh, đă đón cô ấy về trị liệu. Cô bé tên là
Laura Bridgeman. Ông bác sĩ lập một cuốn sổ tay, anh cũng nên
làm như vậy, để ghi chép những tiến bộ của bệnh nhân, hay trong
lúc đầu chưa có tiến bộ th́ ít nhất những sự việc chính ḿnh đă
thực hiện. Ngày này qua ngày khác, ông bắt cô bé sờ mó hai món
đồ, một cây kim và một quản bút, rồi lại bắt sờ một trang giấy
có viết nổi hai chữ là ‘Kim’ và ‘Bút’. Và mấy tuần lễ trôi qua
như vậy, không chút kết quả. Thể xác cô bé trống vắng như không
linh hồn, không trí tuệ. Vậy mà ông ta không nản ḷng. Ông ta kể
lại là ông tự tạo cho ḿnh cảm nghĩ là đang đứng trên miệng
giếng sâu, tay cầm sợi thừng dài gióng xuống đáy giếng mà quơ
qua quơ lại, hy vọng sẽ có bàn tay bắt lấy. V́ ông chắc chắn tin
rằng có kẻ đang kẹt dưới đáy giếng, và sau cùng thế nào cũng có
bàn tay nắm lấy đầu thừng. Rồi một hôm, gương mặt của Laura,
thường ngày vô hồn đần độn, bỗng sáng lên với những nét thay đổi
thô sơ có thể kể như một nụ cười; tôi tưởng tượng nét mặt của
người thầy thuốc lúc đó. Chắc chắn là ông ta quỳ xuống, giàn
giụa nước mắt của phước lành và của t́nh thương, để tạ ơn Chúa.
Đột nhiên cô bé hiểu được bác sĩ muốn nàng làm ǵ; thế là Laura
được cứu rỗi. Từ hôm đó nàng bắt đầu chú ư. Nàng tiến bộ mau
chóng. Về sau nàng tự học, và sau cùng trở thành hiệu trưởng một
trường cho trẻ em mù. Cũng có thể tôi lầm chuyện Laura Bridgeman
với trường hợp một bệnh nhân khác… v́ những trường hợp như vậy
gần đây nhiều lắm, báo chí tranh nhau đăng tải, và tỏ ra ngạc
nhiên (theo ư tôi, thật là ngớ ngẩn), là khiếm khuyết giác quan
đến như vậy mà cũng thấy được hạnh phúc. Sự thật là những con
người như vậy đă hạnh phúc, và một khi biết cách phát biểu, đều
kể lại hạnh phúc của ḿnh. Tất nhiên là các nhà báo lấy làm hân
hoan, suy diễn ra bài học cho những người được hưởng đầy đủ năm
giác quan đă không biết sướng mà c̣n than thở nọ kia…”
Tới đây bác sĩ Martins và tôi có ít nhiều sai biệt quan điểm,
với tôi phản đối cái nh́n bi quan của anh rằng vai tṛ của giác
quan chỉ là làm cho chúng ta bất an và bơ vơ.
Anh căi lại:
“Tôi không bi quan như vậy. Tôi chỉ muốn nói là tâm hồn con
người tự nó có khả năng h́nh dung ra được những ǵ chân thiện mỹ
một cách tự nhiên và dễ dàng, hơn là những điều lộn xộn hay tội
lỗi nhan nhản khắp nơi đang làm ô nhiễm thế giới này mà tiếc
thay ngũ quan lại ghi nhận cho chúng ta. Nên chi khi tôi sẵn
ḷng chắp theo câu “Fortuntos nimium” của Virgile mệnh đề “si
sua mala nescient”, thay v́ mệnh đề “si sua bona norint” như
chúng ḿnh đă học. Loài người sẽ hạnh phúc biết bao nếu không
biết đến những ǵ xấu xa.”
Rồi anh nhắc đến cuốn truyện của văn hào Dickens, có lẽ đă được
cảm hứng từ trường hợp Laura Bridgeman, và anh hứa sẽ gửi cho
tôi đọc. Bốn ngày sau tôi nhận được truyện Con dế mèn bên ḷ
sưởi. Tôi đọc ngấu nghiến. Truyện khá dài, nhưng có đoạn khá bi
ai, về một cô bé mù và người cha nghèo khó làm nghề chế tạo đồ
chơi trẻ em, nuôi dưỡng cô trong ảo tưởng của một cuộc sống tiện
nghi, giàu có và hạnh phúc. Dickens dùng văn tài của ḿnh để đem
lại nét thánh thiện cho sự dối trá của người cha đáng thương.
Lạy Chúa, tôi sẽ không phải dối trá như vậy với Gertrude.
Ngay ngày hôm sau tôi hăng say đem tất cả sức ḿnh để áp dụng
phương pháp mới của bác sĩ Martins. Bây giờ tôi mới tiếc là đă
không giữ sổ tay như anh dặn, để ghi lại những bước chập chững
của Gertrude trên con đường tranh tối tranh sáng, và sự ṃ mẫm
của chính tôi khi d́u dắt con bé. Những tuần lễ đầu tôi phải cực
kỳ kiên nhẫn, không những tại phương pháp dạy đặc biệt tốn nhiều
thời gian, mà c̣n v́ những cằn nhằn trách móc. Tôi rất buồn ḷng
khi phải nói rằng trách móc ấy lại từ chính Amélie tới; tôi nói
điều này ra đây là tại tôi không c̣n oán hận hay cay đắng — tôi
cam đoan như vậy, pḥng khi nàng đọc được những trang này. (Chúa
đă chẳng dậy ta tha thứ sao, ngay trong ẩn dụ của Người về
chuyện con chiên lạc). Tôi phải nói thêm: nàng không làm khổ tôi
v́ kỳ kèo đă mất thời giờ với Gertrude. Thật ra tôi trách nàng
nhất là đă không tin tưởng tôi sẽ thành công khi săn sóc con bé.
Đúng, chính sự thiếu ḷng tin này đă làm tôi buồn. Tôi nghe nàng
nhắc đi nhắc lại: “Nào có kết quả ǵ cho cam…” Và nàng đinh ninh
rằng sự lao tâm lao lực của tôi vô hiệu quả; v́ không hy vọng
thành công, nàng khó chấp nhận chuyện tôi dành quá nhiều th́ giờ
để dạy dỗ Gertrude, lượng th́ giờ nàng thấy đáng hơn là dùng cho
rất nhiều việc khác. Và mỗi khi tôi bận rộn với Gertrude, nàng
kiếm cách cho tôi hay là việc này việc nọ đang đợi tôi, và tôi
đă chuyển cho con bé thời gian lẽ ra phải dành cho người khác.
Tôi nghĩ ḷng ghen tị của người mẹ đă khích động nàng, v́ hơn
một lần nàng bảo tôi: “Anh chưa bao giờ chăm con ḿnh như vậy.”
Điều này đúng. Tôi thương yêu các con tôi rất nhiều, nhưng chưa
bao giờ tôi nghĩ tôi phải bận rộn v́ con.
Tôi nhiều lần cảm thấy rằng cái ẩn dụ con chiên lạc là một sự ẩn
dụ bí hiểm không thể hiểu nổi cho một số tâm hồn dù vẫn tự tin
là ḿnh ngoan đạo. Những tâm hồn ấy không thể vươn lên để lănh
hội rằng dưới mắt người chăn chiên, mỗi con cừu lấy riêng ra quư
hơn tất cả bày cừu họp lại. Đối với lời Chúa rằng: “Nếu kẻ có
trăm con cừu và một con bị lạc, lẽ nào không bỏ lại chín mươi
chín con trên núi để đi t́m nó hay sao?” — nếu họ dám nói thẳng,
tất sẽ cho rằng lời nói sáng ngời từ bi ấy là vô cùng bất công
đáng phản đối kịch liệt.
Những nụ cười đầu tiên của Gertrude là niềm an ủi cho tôi khỏi
mọi ưu phiền, và trăm lần tưởng thưởng lại công lao của tôi. V́
như lời Chúa rằng “Con cừu lạc này nếu kẻ mục đồng t́m lại được,
ta nói thật với các con, sẽ đem lại nhiều hoan lạc hơn chín mươi
chín con cừu chưa bao giờ đi lạc kia.” Đúng, quả là chưa đứa con
nào của tôi khi cười lại làm tim tôi chứa chan t́nh yêu thánh
thiện như nụ cười một buổi sáng tôi thấy trên gương mặt vô hồn
như phỗng này, khi bất thần con bé bắt đầu hiểu và chú ư đến
những điều tôi cố gắng dậy nó bấy lâu.
Phần II
Ngày 5, tháng Ba.
Tôi ghi nhận hôm ấy có ư nghĩa là một ngày khai sanh. Gọi đấy là
nụ cười th́ thật không đủ. Đúng hơn, đây là sự thoát h́nh lột
xác. Đột nhiên, tất cả những nét trên gương mặt Gertrude trở nên
linh động… như một sự soi sáng bất ngờ, như ánh hào quang tím
nhạt đột hiện trên núi Alpes một buổi tinh sương trước cả b́nh
minh, làm rung rinh đỉnh núi tuyết phủ vừa được mang ra khỏi
bóng đêm, như một sự tô màu huyền diệu; tôi cũng nghĩ đến hồ
Bethesda của Phúc Âm mà làn nước tù bấy lâu ủ ê vừa được thiên
thần tới đánh thức. Tôi lâng lâng hồ hởi ngắm nh́n nét đẹp thánh
thiện vừa mới xuất hiện trên gương mặt Gertrude, v́ cái ǵ vừa
tới ngự trị nơi h́nh hài cô bé, tôi nghĩ không hẳn là Trí Tuệ,
mà là T́nh Thương. Linh hồn tôi như bay bổng với ơn phước dào
dạt, và nụ hôn đầu tiên tôi đặt lên vừng trán xinh đẹp là nụ hôn
kính cẩn tôi dâng lên Chúa.
Bước đầu càng khó khăn bao nhiêu th́ những bước tiếp theo lại dễ
dàng bấy nhiêu. Hôm nay tôi ngồi cố gắng nhớ lại những chặng
đường hai chúng tôi đă qua; h́nh như có khi Gertrude đă tiến
bằng những bước nhảy vọt, làm phương pháp giảng huấn của tôi trở
thành tṛ đùa. Tôi nhớ lúc đầu tôi chú trọng đến tĩnh từ hơn là
danh từ. Thí dụ như nóng, lạnh, ấm, êm, đắng, cứng, mềm, nhẹ,
v..v.. Rồi tôi bước sang động từ, như tách rời, ráp lại, nâng
lên, chéo qua, ngă xuống, nối lại, phân ra, hợp vào, v..v.. Ít
lâu sau không cần đến phương pháp nữa, tôi nói chuyện b́nh
thường với Gertrude mà vẫn không sợ ḿnh đi quá nhanh; tôi
khuyến khích Gertrude tha hồ đặt câu hỏi cho tôi giảng giải. Tất
nhiên khi tôi đi rồi, Gertrude c̣n lại một ḿnh vẫn tiếp tục vận
dụng trí óc; thành thử nhiều khi trở lại để dạy bài mới cho
Gertrude, tôi phải ngạc nhiên v́ tấm màn đêm lần trước ngăn cách
thầy tṛ chúng tôi tự nó đă mỏng đi trông thấy. Tôi thầm nghĩ,
nàng Xuân đầm ấm tất phải thắng nổi chúa Đông lạnh lùng. Đă bao
lần tôi thích thú ngắm cảnh tuyết tan: có lẽ v́ tấm thảm tuyết
hao ṃn phía dưới, trông ngoài tưởng như không thay đổi, mùa
đông nào vợ tôi cũng mắc lừa về chuyện này và thường than với
tôi rằng tuyết măi không chịu tan; rồi thảm tuyết tưởng c̣n dầy
th́ bất thần từng mảng tuyết mất chân rạn vỡ trôi đi, phơi bày
sự sống tưng bừng đă âm thầm hồi sinh tự những bao giờ.
Sợ Gertrude suy nhược v́ cứ ngồi bên ḷ sưởi như bà lăo, tôi bắt
đầu dẫn cô bé ra ngoài dạo chơi. Nhưng chỉ khi nào có tôi cầm
tay Gertrude mới chịu đi. Con bé sợ hăi và ngạc nhiên lúc vừa ra
khỏi nhà.. Tuy Gertrude chưa biết tŕnh bày rành mạch, tôi cũng
quá rơ là nó nhút nhát như vậy là v́ cho đến bây giờ chưa từng
được ra khỏi ngưỡng cửa. Nơi ngôi nhà tranh cũ của bà, nó chưa
bao giờ được ai săn sóc ngoài việc cho ăn cho khỏi chết đói, nói
ǵ đến chuyện dưỡng dục. Vũ trụ tối tăm của Gertrude là bốn bức
tường của căn pḥng chật hẹp mà nó chưa dám rời khỏi. Những ngày
hè nó chỉ dám mon men đến thềm, khi cửa nhà mở ra bên ngoài sáng
rộng. Về sau Gertrude cho tôi biết là hồi trước nghe chim hót,
nó tưởng tiếng chim là do nắng tạo thành cũng như hơi ấm mơn
trớn trên má hay trên da bàn tay nó, và tuy bấy giờ không biết
suy nghĩ thấu đáo, nó cho là không khí được nắng sưởi nóng đă
hót lên, tương tự nước đun sôi th́ reo trong ấm treo trên ḷ
lửa. Thực ra Gertrude bấy giờ không quan tâm đến chuyện ǵ. Con
bé sống cô lập trong hôn mê tê dại, cho đến hôm được tôi mang về
săn sóc. Tôi nhớ măi nó vui mừng ngoài sức tưởng tượng khi được
cắt nghĩa là những tiếng hót xinh xắn bé bỏng đó là ngôn ngữ của
những sinh vật mà h́nh như nhiệm vụ độc nhất trong trời đất là
cảm thấy hạnh phúc và ca lên niềm vui chan ḥa của tạo vật. Từ
hôm đó Gertrude có thành ngữ mới là ‘Con vui như chim’.
Nhưng con bé buồn v́ không thấy được cái tạo vật huy hoàng mà
chim ca ngợi. Gertrude hỏi tôi:
“Mục sư ơi, cuộc đời có đẹp như lời chim kể không. Tại sao loài
người không nói về cuộc đời nhiều hơn. Tại sao Mục sư không kể
cho con nghe nhiều hơn. Hay Mục sư sợ con tủi thân v́ những
chuyện con không được thấy.”
“Con không buồn đâu. Chim vẫn kể cho con biết bao nhiêu chuyện.
Con tin là con hiểu được những ǵ chim muốn nói với con.”
Tôi kiếm lời an ủi:
“Những người có thị giác không biết nghe tiếng chim hót như con
đâu.”
Cô bé lại hỏi:
“Nhưng Mục sư ơi, sao những sinh vật khác không hót?”
Nhiều lúc Gertrude làm tôi phải suy nghĩ. Gertrude bắt tôi phải
phân tích những sự việc tôi đă quen chấp nhận mà không thắc mắc.
Nhờ vậy mà hôm đó tôi nghiệm ra là những sinh vật càng nặng nề,
càng sát gần mặt đất bao nhiêu th́ càng buồn bă bấy nhiêu. Tôi
t́m cách giảng cho cô bé ư niệm vừa mới suy ra; và tôi nhắc tới
con sóc nhẹ nhàng chơi đùa tinh nghịch trên cành cao.
Gertrude lại hỏi có phải chỉ có chim mới biết bay không. Tôi trả
lời là bướm cũng biết bay.
“Thế bướm có biết hót không?”
Tôi cắt nghĩa:
“Bướm có cách của bướm để bày tỏ vui mừng. Cách ấy vẽ trên cánh
bướm…”
Và tôi tả cho con bé những màu sắc huy hoàng của loài côn trùng
mỹ miều này.
o0o
Ngày 28 tháng Hai,
Tôi phải trở lại đoạn trước. Hôm qua ham viết, tôi đă bỏ sót rất
nhiều.
Để dạy Gertrude, tôi đă học mẫu tự của người mù. Nhưng chẳng mấy
chốc, cô bé đă thông thạo loại chữ này hơn tôi. Tôi vẫn chưa
quen, và vẫn c̣n dùng mắt nhiều hơn dùng tay để nhận mặt chữ.
Ngoài ra, tôi không phải là thầy giáo độc nhất của cô bé. Có
thời gian Jacques giúp tôi dạy học Gertrude. Mới đầu tôi cũng
mừng, v́ mục vụ trong giáo khu khá bận rộn, dân chúng lại ở rải
rác, có khi tôi phải đi khá xa để thăm viếng những con chiên
nghèo bệnh tật. Thằng Jacques học thần học ở Lausanne, nhân vụ
lễ Giáng Sinh về nhà chơi, thế mà cũng đi trượt băng cho ngă gẫy
tay. Vết gẫy không có ǵ trầm trọng, và bác sĩ Martins tuy không
chuyên khoa chỉnh h́nh cũng bó lại được ngay ngắn. Tuy nhiên cẩn
thận vẫn hơn, Jacques nghỉ học ở nhà ít lâu để dưỡng bệnh. Bỗng
nhiên thằng bé để ư đến Gertrude mà cho đến bây giờ hắn vẫn thờ
ơ. Jacques bắt đầu dạy Gertrude tập đọc. Jacques chỉ đóng vai
phụ giáo được trong thời gian dưỡng bệnh, nhưng trong ba tuần lễ
ngắn ngủi đó, Gertrude tiến bộ vượt bực. Cô bé siêng học hơn.
Cái trí tuệ hôm qua c̣n ngái ngủ bỗng dưng nảy nở nhanh chóng,
tựa hồ như chưa tập đi đă biết chạy. Tôi ngợi khen cô bé có thể
tổ chức sắp xếp ư nghĩ một cách dễ dàng. Ngôn ngữ phát triển
trông thấy. Đă không c̣n ăn nói ngây ngô như trẻ nít, Gertrude
phát biểu khá chuẩn khi tạo những ư niệm bằng một cách bất ngờ
và thích thú, là dùng những đồ vật biết được một cách trực tiếp
nhờ xúc giác, hay gián tiếp do được tả lại; chúng tôi dùng
phương pháp của người đạc điền dùng những ǵ trong tầm tay sờ
được với được, để xử lư những ǵ ở xa.
Tôi nghĩ không cần thiết nhắc lại tất cả những bước đầu việc dạy
dỗ Gertrude mà các sách giáo khoa cho người mù nói chung chắc
cũng đă ghi chép đầy đủ với chi tiết. Chắc mọi giáo viên dạy
người mù đă lúng túng khi giảng cho học tṛ về màu sắc. (Về vụ
này, tôi nhớ lại là Kinh Thánh không có đoạn nào nói đến màu
sắc). Tôi không nhớ người khác dùng cách nào. Riêng tôi, lúc đầu
tôi tả cho Gertrude những màu của quang phổ, theo thứ tự chúng
xuất hiện trên cầu vồng. Cách giảng đó làm Gertrude lẫn lộn ngay
màu sắc với độ sáng. Thật là khó khăn cho Gertrude khi lănh hội
rằng mỗi màu có thể đậm nhạt riêng, và các màu có thể pha trộn
với nhau cho đến vô cùng. Gertrude bị ám ảnh về chuyện này, và
luôn luôn trở lại đề tài khúc mắc đó.
Tuy nhiên một hôm tôi có dịp đưa Gertrude đi Neuchatel nghe ḥa
tấu. Công dụng của các nhạc cụ khác nhau cho phép tôi trở lại
vấn đề phân tích màu sắc mà cô bé vẫn c̣n bận tâm. Tôi lưu ư
Gertrude sự khác nhau về âm thanh của của kèn đồng, đàn, và
những nhạc khí bằng gỗ. Rồi mỗi nhạc cụ lại có thể tạo ra âm
thanh to nhỏ khác nhau, với cung bậc cao thấp, từ tiếng trong
nhất đến tiếng đục nhất. Tôi khuyên Gertrude tưởng tượng màu đỏ
hay màu cam trong tạo vật như tiếng tù và hay tiếng kèn
trom-bon, màu vàng hay màu lục như tiếng vĩ cầm, hồ cầm và
công-bát, màu tím và màu xanh dương như tiếng sáo, tiếng
cla-ri-nét, hay tiếng ô-boa. Cô bé sung sướng và không c̣n ngờ
vực ǵ nữa, màu sắc chắc phải có thật.
Gertrude nhắc đi nhắc lại:
“Như vậy chắc phải đẹp lắm, phải không Mục sư?”
Rồi bất chợt cô bé hỏi:
“Thế c̣n màu trắng th́ sao? Con không hiểu màu trắng th́ nghe
giống cái ǵ nhỉ?”
Và tôi thấy ngay cách đối chiếu màu sắc qua âm thanh của tôi
không toàn hảo. Tuy nhiên tôi gắng giải thích:
“Màu trắng là cái giới hạn cao nhất của sự ḥa tấu giữa các màu
tươi. C̣n màu đen là giới hạn thấp nhất của những màu tối.”
Cả Gertrude và tôi đều không thỏa măn với giải thích này. Cô bé
nhắc cho tôi là nhạc khí bằng gỗ, bằng đồng, hay đàn vĩ cầm, vẫn
khác nhau, dù ở chung những âm bậc cao nhất hay thấp nhất. Cũng
như bao nhiêu lần khác, tôi đă phải sững sờ moi óc t́m những thí
dụ cụ thể để giảng cho cô bé.
Sau cùng tôi nói:
“Thế này nhé. Con hăy tưởng tượng màu trắng như một màu thật
trong sạch, không vẩn đục bởi một màu nào khác. Tựa như ánh sáng
thuần túy. Màu đen đại để là một t́nh trạng quá nhiều màu, đến
nỗi màu nọ lẫn lộn với màu kia làm toàn thể đen ng̣m…”
Hôm nay nhớ lại những mẫu chuyện vụn vặt này, tôi bèn kể lại đây
như tiêu biểu cho những khó khăn rất thường gặp khi tôi dạy dỗ
cô bé. Gertrude có tính tốt là nếu không hiểu th́ không bao giờ
làm bộ nhận là ḿnh hiểu. Những người như vậy đầu óc đầy những
dữ kiện sai lầm hay thiếu sót, nên về sau suy luận không c̣n
chính xác nữa. Gertrude lại khác, có chuyện ǵ chưa biết đến nơi
đến chốn, th́ cứ thắc mắc măi cho đến khi tường tận mới cam.
Lại c̣n chuyện khó khăn này nữa. Như đă nói ở trên, trong đầu óc
Gertrude, không biết từ bao giờ, ánh sáng và nhiệt lượng đă luôn
luôn dính liền với nhau, chặt chẽ đến nỗi khi dạy cô bé, tôi
không thể tách rời hai ư niệm đó ra được.
Chính nhờ dạy dỗ Gertrude mà tôi mới nghiệm thấy sự khác nhau
giữa thế giới thị giác và thế giới thính giác. Đối chiếu hay suy
diễn liên hệ qua lại giữa âm thanh và màu sắc quả thật không sao
mà tránh khỏi khập khiễng hồ đồ.
o0o
Ngày 29 tháng Hai.
Mải viết về âm thanh và màu sắc, tôi quên chưa kịp kể niềm hân
hoan của Gertrude khi được nghe ḥa tấu ở Neuchatel. T́nh cờ hôm
đó chính vở ‘Bản Đàn Thôn Dă’ được tŕnh diễn. Tôi dùng chữ
‘chính’ v́ không có một bản nhạc nào mà tôi lại muốn cho
Gertrude nghe hơn là bản nhạc này. Ra khỏi rạp một lúc khá lâu
mà Gertrude vẫn c̣n như đang đắm ch́m trong sảng khoái.
Sau cùng cô bé hỏi:
“Những điều mắt thấy có đẹp đến như vậy không?”
“Đẹp như chuyện ǵ, con?”
“Đẹp như cái cảnh ‘ven bờ suối’ trong bản ḥa tấu.”
Tôi không trả lời ngay, v́ tôi nghĩ những lời nhạc ấy không vẽ
lại thế giới có thực, mà một thế giới lẽ ra có thể có, nếu không
có tội lỗi xấu xa chết chóc.
Sau cùng tôi nói:
“Những người có thị giác sướng mà không biết ḿnh sướng.”
Cô bé vội vă lên tiếng:
“Nhưng con đâu có cần có thị giác mà vẫn biết được hạnh phúc của
âm thanh.”
Gertrude vừa bước vừa ép sát vào người tôi, tựa nặng trên cánh
tay tôi như trẻ con thường làm:
“Mục sư ơi, Mục sư có thấy con hạnh phúc không? Không, con không
nói như vậy để làm vui ḷng Mục sư đâu. Nh́n con này: có phải
khi người ta nói dối th́ chỉ cần nh́n mặt là biết liền phải
không? C̣n con, ai nói dối con nghe giọng nói là con biết liền.
Mục sư có nhớ hôm Mục sư nói là Mục sư không khóc khi D́ con
(Gertrude thường gọi vợ tôi là D́) trách Mục sư không bao giờ
biết chiều D́, con đă biết ngay. Chính hôm đó con đă nói là Mục
sư nói dối con. Nghe giọng nói của Mục sư là con biết mà. Con
đâu có cần sờ má Mục sư để xem có nước mắt hay không.”
Rồi Gertrude bỗng cao giọng, chậm răi lập lại một ḿnh:
“Không, hôm đó con đâu có cần sờ má Mục sư.”
Tôi lúng túng v́ lúc đó chúng tôi chưa ra khỏi khu thị tứ, và
câu nói ngây thơ của Gertrude làm mấy người bộ hành quay đầu lại
nh́n. Nhưng Gertrude vẫn nói tiếp:
“Mục sư biết không, đừng ḥng giấu con chuyện ǵ. Thứ nhất, dối
kẻ mù ḷa là điều phải tội…”
Tươi cười, nàng nói thêm:
“Mà thứ hai là con không mắc lừa đâu.”
Gertrude lại hỏi:
“Mục sư ơi, nói cho con nghe đi. Bây giờ Mục sư không buồn phải
không.”
Như để cho Gertrude hay là một phần `hạnh phúc hiện tại của tôi
là nhờ nàng mà có, tôi cầm tay cô bé đưa lên môi:
“Không Gertrude con, ta không buồn. Làm sao mà ta lại buồn
được.”
“Vậy mà con biết thỉnh thoảng Mục sư đă khóc.”
“Ta cũng có khóc một đôi lần.”
“Nhưng từ hôm đó Mục sư có c̣n khóc nữa không?”
“Không, Gertrude cưng.”
“Nói cho con nghe nữa đi. Từ hôm ấy, có bao giờ Mục sư c̣n muốn
nói dối con nữa không?”
“Không cưng.”
“Mục sư có thể hứa là từ giờ sẽ không bao giờ dối con nữa
không?”
“Hứa.”
“Vậy th́, trả lời con ngay đi: Con có đẹp không, Mục sư?”
Câu hỏi bất ngờ làm tôi sững sờ. Nhất là cho đến bấy giờ tôi
không muốn ghi nhận vẻ đẹp như đập vào mắt của cô bé. Vả lại tôi
cho rằng nàng biết ḿnh đẹp đâu có ích ǵ. Tôi hỏi lại Gertrude:
“Con muốn biết lắm sao?”
“Con bận tâm chuyện này lắm. Con muốn biết…, con nói làm sao bây
giờ…, con muốn biết bản thân con có làm buổi ḥa tấu của cuộc
sống xấu xí đi không. Điều này nếu con không hỏi Mục sư th́ con
hỏi ai bây giờ?”
Gượng chống đỡ, tôi trả lời:
“Người mục sư thường không chú ư đến vẻ đẹp của dung nhan.”
“Tại sao, Mục sư?”
“Tại v́ với người mục sư, vẻ đẹp của tâm hồn đă đầy đủ quá rồi.”
“Con biết rồi. Mục sư muốn cho con hiểu rằng con xấu xí lắm phải
không?”
Nàng vừa nói vừa bậm môi làm duyên. Không c̣n chịu nổi, tôi buột
miệng nói lớn:
“Gertrude cưng, con cũng biết là con đẹp lắm mà!”
Nàng yên lặng không hỏi thêm ǵ nữa, và từ đấy cho đến khi tới
nhà, nét mặt thật đăm chiêu.
Vừa thấy tôi về nhà là Amélie đă cho tôi hiểu là nàng không tán
thành cách tôi sử dụng th́ giờ. Lẽ ra nàng nên phản đối ngay từ
trước. Tuy nhiên như thường lệ, nàng đă để yên cho tôi dẫn
Gertrude đi nghe nhạc, để dành lấy quyền cằn nhằn trách móc về
sau. Nàng không trách móc thành lời, nhưng sự yên lặng của nàng
cũng đă quá rơ ràng. Biết tôi dẫn Gertrude đi nghe nhạc về mà
nàng không buồn hỏi thăm về chương tŕnh ḥa tấu, đă chẳng là
chuyện bất thường rồi sao. Tội nghiệp con bé, sự vui mừng của nó
sẽ tăng gia bội phần, nếu nàng chỉ tỏ ra mảy may lưu tâm đến nó.
Nói cho đúng th́ vợ tôi không hẳn hoàn toàn lầm ĺ yên lặng,
nhưng nàng chỉ nói những chuyện vặt vănh không đâu. Đến tối, khi
trẻ con đă đi ngủ hết, tôi mới nghiêm nghị hỏi vợ:
“Tôi mang Gertrude đi nghe nhạc mà em cũng bực ḿnh sao?”
Nàng đối đáp:
“Chưa bao giờ em thấy anh lo cho người thân trong gia đ́nh này
như vậy.”
Lại vẫn hờn dỗi cũ. Nàng vẫn không chịu hiểu rằng đứa con lạc
đàn trở về bao giờ cũng làm cha mẹ vui mừng hơn là đứa con vẫn ở
lại nhà. Nàng không thương hại tật nguyền của con bé. Chút vui
thú nhỏ nhoi này là món quà vô cùng hiếm hoi trong cuộc đời bất
hạnh của nó. Mà đâu có ǵ cho cam, tôi thường xuyên bận rộn, chỉ
hôm đó mới t́nh cờ được rảnh rang. Nàng thật là hàm hồ, trẻ con
hôm ấy không bận chuyện này th́ mắc chuyện kia, c̣n nàng th́ có
bao giờ thích nghe ḥa nhạc đâu. Những hôm rảnh rỗi, dù có ḥa
tấu ngay trước nhà nàng cũng không buồn đi dự. Bực ḿnh hơn nữa
là nhà tôi cằn nhằn trách móc ngay trước mặt Gertrude. Tôi có ư
d́u vợ ra khỏi tầm tai, nhưng nàng lại chủ ư lên giọng cho
Gertrude nghe thấy. Tôi giận hơn là buồn. Lát sau khi Amélie đă
vào nhà trong, tôi tới cầm lấy bàn tay bé bỏng của Gertrude đưa
lên má tôi:
“Con coi này, lần này ta đâu có khóc.”
Gắng lấy giọng vui, nàng nói:
“Không, lần này là phiên con.”
Nàng gượng cười và ngước lên t́m tôi. Tôi thấy một khuôn mặt
chan ḥa nước mắt.
o0o
Ngày 8 tháng Ba.
Niềm vui độc nhất tôi có thể đem lại cho nhà tôi là đừng làm
điều này điều nọ, để nàng khỏi bực ḿnh. Lối yêu thương hoàn
toàn tiêu cực, nhưng là lối yêu thương độc nhất mà nàng để tôi
làm. Nàng đă thu hẹp cuộc sống của tôi đến như vậy là điều nàng
không hề để tâm ghi nhận. Lạy Chúa, hăy để nàng muốn tôi làm
chuyện ǵ khó khăn hơn. Tôi sẽ sung sướng biết mấy nếu nàng đ̣i
hỏi ở tôi những việc hiểm nghèo. Nhưng có thể nói là Amélie ghét
bỏ tất cả những ǵ không thuộc về đời sống đều đặn thường nhật.
Đến nỗi cuộc đời với nàng chỉ là gom nhặt những chuỗi ngày nhạt
nhẽo sắp tới để chồng lên một quá khứ cũng đă nhạt nhẽo như vậy.
Nàng không chờ đợi mà cũng không muốn chấp nhận những đức tính
mới, hay gia tăng những đức tính cũ nơi tôi. Nàng sợ hăi nếu
không muốn nói là phản đối mọi cố gắng để thấy trong Đạo Chúa
một điều ǵ ngoài việc chế ngự bản năng con người. Nàng lo sợ
thấy ai muốn t́m kiếm trong lời Chúa bất cứ chuyện ǵ ngoài
chuyện khuyên răn khổ hạnh.
Tôi thú nhận là khi tới Neuchatel tôi đă quên khuấy lời nàng dặn
tới tiệm tạp hóa thanh toán sổ sách cũng như kiếm cho nàng một
cuộn chỉ khâu. Nhưng tôi giận tôi c̣n hơn nàng giận tôi nữa;
nhất là lúc rời nhà, tôi đă dặn ḷng là không được quên, v́ biết
câu ‘ai trung tín chuyện nhỏ sẽ thủy chung chuyện lớn’, tôi sợ
nàng sẽ kết luận như vậy nếu tôi không nhớ. Thậm chí tôi c̣n cầu
mong nàng lên tiếng trách móc, v́ thật ra tôi thấy ḿnh cũng
đáng tội. Khổ nỗi thường thường những buồn phiền ở đời tưởng
tượng nhiều hơn là có thực. Cuộc sống sẽ đẹp tốt biết bao và các
sự bất hạnh sẽ nhẹ hơn biết bao, nếu ta chỉ ghi nhận những sầu
muộn có thực, thay v́ nghe theo con quỷ hờn dỗi trong trí tưởng
tượng của ta… Tôi đă lạc đề, điều này thực ra là đề tài cho một
bài giảng (Kinh Matt., XII,29: Đừng nên để tâm hồn bất an). Chủ
tâm tôi lúc này là ghi lại sự tiến bộ về trí tuệ cũng như tâm
hồn Gertrude. Vậy th́ tôi nên trở lại đề tài.
Tôi muốn kể tiếp nơi đây sự tiến triển bộ ấy từng bước một, và
tôi đă bắt đầu một vài chi tiết. Nhưng không những tôi không có
th́ giờ để ghi chú cặn kẽ mọi giai đoạn, hôm nay nhớ lại sự
tương quan của chúng với nhau lại vô cùng khó khăn. Theo đà câu
chuyện, tôi đă kể trước những suy nghĩ, những đối thoại với cô
bé rất gần đây, nên ai t́nh cờ đọc những trang ấy chắc sẽ ngạc
nhiên thấy Gertrude bỗng nhiên có thể phát biểu bằng những tư
tưởng chín chắn gẫy gọn như vậy. Thật ra cô bé cũng tiến nhanh
một cách bất ngờ: tôi thường phải thán phục đầu óc sắc bén của
Gertrude khi hấp thụ món ăn trí tuệ tôi mang lại, để tiêu hóa và
phát triển không ngừng. Gertrude làm tôi ngạc nhiên, v́ nhiều
chuyện tôi chưa nghĩ đến th́ cô bé đă suy ra, và nhiều khi từ
buổi tṛ chuyện hôm trước tới buổi tṛ chuyện hôm sau, có khi
tôi không nhận ra người học tṛ cũ của ḿnh nữa.
Ít tháng sau, không ai có thể nghĩ trí khôn cô bé đă có thời tê
liệt lâu đến thế. Gertrude c̣n chững chạc hơn nhiều thiếu nữ mà
ngoại giới đă làm cho xao nhăng, và những chuyện tầm vơ đă chiếm
hết đầu óc. Tôi nghĩ có lẽ Gertrude lớn hơn là tôi đă ước đoán
buổi đầu. Xem ra cô bé cũng như đă lợi dụng được khuyết tật của
ḿnh, trên nhiều phương diện mù ḷa đă trở thành ưu điểm. Nhiều
khi bất giác tôi so sánh Gertrude với con Charlotte. Những khi
tôi kèm bài vở cho con gái, thấy nó bị lơ đăng v́ con ruồi vừa
bay qua, tôi thầm nghĩ:
“Nói dại, nếu mắt nó không thấy đường, chắc nó đă ngồi học với
bố chuyên cần hơn.”
Gertrude mê đọc sách. Nhưng để dễ theo sát tâm trí cô bé, tôi
không muốn Gertrude đọc quá rộng -ít nhất những khi không có mặt
tôi- và nhất là đọc quá rộng Thánh Kinh. Điều này nghe có vẻ bất
thường với một tín đồ Cơ Đốc như tôi. Tôi sẽ có dịp cắt nghĩa lư
do của quyết định này. Trước khi đề cập đến một câu chuyện quan
trọng như vậy, tôi muốn kể một sự việc nhỏ có liên hệ đến âm
nhạc, cũng vào thời gian buổi ḥa tấu ở Neuchatel.
Phải rồi, chuyện này xảy ra độ ba tuần trước vụ nghỉ hè (thời
gian Jacques về sống với gia đ́nh). Bữa đó tôi dẫn Gertrude đến
ngồi trước cây đàn phong cầm của nhà thờ thường thường do cô De
la M. phụ trách. Gertrude chưa học nhạc với cô và cũng chưa dọn
tới nhà cô ở. Tôi tuy yêu nhạc nhưng không giỏi môn này, và ngồi
trước đàn tôi cảm thấy không đủ khả năng đóng vai thày giáo. Hôm
đó vừa đặt tay trên phím, cô bé đă xin với tôi:
“Mục sư cho con thử tập một ḿnh.”
Tôi sẵn ḷng chiều ư. Ngồi chung một ḿnh với Gertrude trong nhà
thờ vắng vẻ, với miệng tiếng thị phi, không phải là không bất
tiện. Về sau, hôm nào có dịp đi ngang giáo đường, tôi thả
Gertrude ở đấy có khi suốt buổi, xong công việc mới trở lại đón.
Cô gái kiên nhẫn tập đàn một ḿnh, lần ṃ ra những hài âm trên
phím, và chiều về, có khi tôi thấy Gertrude bận rộn với một vài
cộng âm và tỏ ra hoàn toàn thích thú.
Một ngày vào khoảng đầu tháng tám, chưa đến sáu tháng sau, tôi
trở về nhà thờ đón Gertrude trước giờ v́ người góa phụ khốn khổ
tôi tính viếng thăm lại vắng nhà. Gertrude không dè tôi về sớm,
và tôi vô cùng ngạc nhiên thấy thằng Jacques đang ngồi bên
Gertrude trước đàn. V́ tiếng đàn che tiếng bước chân tôi, cả hai
đều không biết tôi đang đi vào. Bản tính tôi không ưa ŕnh ṃ,
nhưng chuyện liên can đến Gertrude, tất nhiên tôi phải để tâm:
rón rén, tôi nhẹ chân leo mấy bực tam cấp lên bệ thờ; vị trí rất
tiện cho việc quan sát. Tôi thú thật suốt thời gian ngồi đó, tôi
không nghe được một lời ǵ mà hai người không thể nói với nhau
đàng hoàng trước mặt tôi. Nhưng Jacques ngồi sát bên Gertrude,
và tôi thấy nhiều lần nó cầm tay Gertrude để hướng dẫn trên phím
đàn. Quả là kỳ lạ v́ cô gái chấp nhận sự chỉ dẫn mà cô đă từ
chối với tôi. Tuy lúc đó tôi không chịu nh́n nhận như vậy, nhưng
tôi rất ngạc nhiên và buồn bực, và đang định bước ra can thiệp
th́ may thay, Jacques đă rút đồng hồ ra coi giờ và nói:
“Có lẽ anh về th́ vừa. Chắc Ba anh cũng sắp tới.”
Tôi thấy Jacques cầm tay Gertrude lên môi hôn rồi cáo từ. Lát
sau tôi rón rén xuống bực thang, ra ngoài để lại ồn ào trở vào
mở cửa, làm như mới tới:
“Gertrude, tập đàn có thích không con?”
Gertude trả lời, giọng hoàn toàn tự nhiên:
“Dạ thích lắm. Hôm nay con tập được nhiều lắm.”
Nỗi buồn to lớn chiếm lấy tim tôi, nhưng cả tôi và Gertrude
không ai nhắc đến chuyện vừa mới xảy ra.
Sau cùng tôi có dịp nói chuyện riêng với Jacques. Lúc đó nhà
tôi, Gertrude và trẻ con đă đi ngủ sớm như thường lệ, chỉ c̣n
hai cha con ngồi đọc sách ở nhà ngoài. Tôi chờ phút này đă lâu.
Vậy mà trước khi nói với con, ḷng tôi tŕ trệ bởi những t́nh
cảm lộn xộn, đến nỗi tôi đâm ra ngại ngùng không biết cách hay
không dám đề cập đến vấn đề đang giày ṿ tâm can. Chính thằng
Jacques lại khai mào câu chuyện, cho hay là nó tính ở nhà với
gia đ́nh trọn vụ hè này. Vậy mà chỉ ít bữa trước nó đă thưa với
cha mẹ là muốn du lịch miền núi Alpes, điều cả hai vợ chồng tôi
vui vẻ chấp thuận. Tôi biết T. bạn đồng hành nó chọn đang đợi nó
cùng đi; tôi thấy ngay sự thay đổi chương tŕnh đột ngột không
phải là không liên hệ đến cảnh tôi đă chứng kiến sáng nay tại
giáo đường. Mới đầu tôi nổi nóng, nhưng lại sợ làm vậy nó sẽ
không tâm sự với bố, cũng không muốn v́ giận dữ mà quá lời mắng
con, tôi hết sức tự kiềm chế và lấy giọng thản nhiên:
“Ba tưởng T. mong con cùng đi leo núi với nó.”
Nó trả lời:
“Ồ, T. không tuyệt đối trông cậy vào con trong vụ leo núi này.
Kiếm người thay thế con cũng không khó khăn ǵ. Con ở nhà nghỉ
ngơi cũng tốt chán, đâu có cần lên núi Oberland. Con nghĩ ở nhà
có nhiều chuyện làm có ư nghĩa cho con hơn là trèo núi.”
“Té ra con kiếm được chuyện làm cho vụ hè này rồi sao?”
Nó nh́n tôi, chắc thoáng thấy ư mỉa mai, nhưng chưa hiểu tại
sao. Nó trả lời:
“Như Ba biết, con bao giờ cũng thích sách vở hơn là gậy leo
núi.”
Nhưng nh́n thẳng vào mắt nó, tôi nói:
“Ba biết. Nhưng con ơi, con không nghĩ là dạy đàn phong cầm c̣n
hấp dẫn với con hơn là đọc sách sao?”
Có lẽ nó cảm thấy mặt nó đỏ. Nó đưa tay lên che trán, như tránh
né ánh đèn. Nhưng nó b́nh tĩnh trở lại, giọng nó tự nhiên hơn là
tôi mong muốn:
“Thưa Ba, xin Ba đừng vội kết tội con. Ḷng con không bao giờ
dám giấu Ba chuyện ǵ. Con sắp thưa, th́ Ba đă hỏi tới.”
Thằng bé ăn nói gẫy gọn, giọng như người đọc sách, mà khi hết
lời cũng b́nh tĩnh chững chạc, như đang bàn chuyện ai. Sự tự chủ
tuyệt vời của nó làm tôi bực tức. Cảm thấy sắp bị tôi ngắt lời,
nó đưa tay lên như muốn nói, không, xin Ba cho con thưa hết câu
chuyện… Nhưng chụp lấy tay nó lắc mạnh, tôi to tiếng:
“A, chẳng thà Ba không thấy mặt con nữa c̣n hơn để cho con làm
vẩn đục tâm hồn trong trắng của con Gertrude. Con không cần phải
thú tội với Ba. Ba đă biết rồi. Lợi dụng tật nguyền của nó, lợi
dụng nó ngây thơ khờ khạo, lợi dụng ḷng thành thật của nó, Ba
không ngờ con có thể làm những chuyện tồi bại như vậy. Ba trách
nhiệm cuộc đời con Gertrude, và Ba không muốn thấy con tṛ
chuyện với nó, cầm tay nó, gặp gỡ nó thêm một ngày nữa…”
Vẫn với giọng b́nh tĩnh tự tin đă làm tôi nổi điên, Jacques trả
lời:
“Nhưng thưa Ba, Ba tin con là con rất kính trọng Gertrude. Ba
lầm nhiều lắm nếu Ba cho rằng có ǵ đáng khinh bỉ không những
trong hành vi mà c̣n trong dự tính hay cả trong đáy ḷng con.
Con yêu Gertrude, con xin thưa với Ba rằng con kính trọng nàng
cũng nhiều như con yêu nàng. Cũng như với Ba, ư nghĩ làm vẩn đục
nàng, lợi dụng nàng ngây thơ và tật nguyền là chuyện hèn hạ
ngoài sức tưởng tượng của con.” Rồi nó thưa với tôi hảo ư của nó
dành cho Gertrude, nguyện là người nâng đỡ nàng, bạn nàng, chồng
nàng. Trước kia nó chưa thưa chuyện với tôi là v́ bấy giờ nó
chưa làm xong quyết định lấy nàng làm vợ; và quyết định bây giờ
của nó, nó chưa chia sẻ với Gertrude, v́ nó định tŕnh tôi trước
rồi sau mới thổ lộ với nàng. Sau cùng nó nói:
“Thưa Ba, đó là tất cả chuyện con phải thú thật với ba. Ngoài ra
xin Ba tin con là con không c̣n ǵ giấu Ba nữa.”
Lời con làm tôi sững sờ. Tôi nghe mạch máu thái dương đang đập
liên hồi. Tôi chỉ sửa soạn để la mắng nó, và khi nó cho tôi tất
cả những lư do để hết nóng giận, th́ tôi càng cảm thấy bất an,
nên khi nó nói xong tôi không biết nói ǵ. Sau một phút yên
lặng, tôi đứng dậy đặt tay lên vai nó:
“Thôi chúng ta đi ngủ. Sáng mai Ba sẽ cho con biết quyết định
của Ba.”
“Nhưng ít ra Ba không c̣n giận con nữa, phải không Ba?”
“Ba cần suy nghĩ đêm nay.”
Sáng sau thấy con, tôi tưởng như mới thấy nó lần đầu. Tôi bỗng
nhận thấy con ḿnh không c̣n trẻ dại nữa mà đă hoàn toàn trưởng
thành; nếu nghĩ nó là con nít, th́ mối t́nh tôi bắt gặp hôm qua
thật là quá quắt. Suốt đêm qua tôi tự thuyết phục là mọi chuyện
trái lại tự nhiên và b́nh thường. V́ đâu mà sự bất măn của tôi
lại gia tăng? Chuyện này về sau tôi mới sáng tỏ nguyên do. Trong
khi chờ đợi, tôi phải cho Jacques hay quyết định của tôi. Vậy mà
một bản năng ráo riết như lương tâm bắt tôi phải ngăn cản cuộc
hôn nhân này bằng mọi giá.
Tôi đă dẫn Jacques ra cuối vườn. Tại đây tôi hỏi nó trước:
“Con đă cho Gertrude hay chưa?”
“Dạ thưa Ba chưa. Con nghĩ em biết con yêu em. Nhưng thổ lộ với
em th́ con chưa thổ lộ.”
“Nếu vậy th́ con phải hứa với Ba là con chưa được cho nó hay
chuyện đó bây giờ.”
“Thưa Ba, con xin hứa với Ba. Nhưng có thể nào Ba cho con biết
lư do.”
Tôi ngần ngại suy nghĩ. Không biết những lư do vừa đến trong đầu
tôi có phải là những lư do đáng nêu ra không. Thật t́nh, tâm hồn
thay v́ lư trí đă dẫn dắt hành động của tôi trong lúc này. Sau
cùng tôi nói:
“Gertrude nó c̣n trẻ dại lắm. Con nghĩ coi, nó bây giờ cũng chưa
rước lễ thông công. Con dư biết nó không như những trẻ khác.
Tiếc thay, sự phát triển của nó đă bị tŕ trệ khá nhiều. Nó dễ
tin, chắc dễ rung động với những lời yêu đương mới được nghe lần
đầu; chính v́ vậy mà điều quan trọng là chưa nên nói với nó
những lời yêu đương đó. Chiếm đoạt những ǵ chưa biết tự vệ là
điều hèn nhát; Ba biết con không hèn. Con nói t́nh con dành cho
nó không có ǵ đáng khinh bỉ. Nhưng Ba cho là t́nh đó vẫn có
tội, v́ đă tới trước hạn kỳ. Gertrude chưa khôn ngoan già dặn,
vậy ta phải khôn ngoan giùm cho nó. Đây là một vấn đề lương
tâm.”
Thằng Jacques có điểm tốt là muốn khuyên can nó điều ǵ chỉ cần
câu nói giản dị “Ba kêu gọi đến lương tâm của con” mà tôi nhiều
lần đă dùng khi nó c̣n nhỏ. Nhưng nh́n con, tôi chợt nghĩ nếu
Gertrude có thị giác, chắc nàng sẽ ngắm mà không chán mắt cái
tấm thân cao ráo vừa rắn rỏi vừa mềm mại, cái vừng trán phẳng
đẹp không nếp nhăn, cái nh́n ngay thẳng, cái khuôn mặt c̣n trẻ
thơ nhưng đă thoáng bóng nghiêm nghị của tuổi trưởng thành.
Jacques đầu trần, tóc màu tro để dài, mấy lọn tóc lùng bùng
ngang thái dương che nửa vành tai.
Tôi đứng dạy, nói tiếp:
“Ba c̣n có điều muốn yêu cầu con. Con đă định ngày mai lên
đường. Vậy th́ con đừng tŕ hoăn nữa. Con cần vắng mặt một
tháng; Ba mong con đừng về sớm một ngày. Con hiểu ư Ba?”
“Dạ. Con xin vâng lời Ba.”
Jacques tái xanh thần sắc, đến nỗi môi nó cũng nhợt nhạt. Nhưng
tự trấn tâm, tôi nghĩ rằng nếu nó phục ṭng lệnh cha một cách dễ
dàng như vậy, th́ t́nh yêu của nó chắc cũng không mănh liệt ǵ;
và tôi cảm thấy vô cùng nhẹ nhơm. Vả lại thấy con dễ bảo tôi
cũng mát ḷng.
“Con vẫn là đứa con mà Ba yêu quư,” tôi nói nhỏ với nó. Tôi kéo
nó lại hôn lên trên trán, có cảm tưởng nó hơi ngả đầu lại phía
sau như muốn né tránh; nhưng lúc đó tôi không muốn bận tâm v́
những chi tiết như vậy.
Phần III
Ngày 10 tháng Ba.
Ngôi nhà chúng tôi nhỏ hẹp, chuyện riêng tư thật khó khăn, có
khi cũng thật bất tiện để làm việc dù tôi đă dành riêng một
pḥng nhỏ trên gác làm bàn giấy mà cũng để tiếp khách. Bất tiện
nhất là khi tôi muốn nói riêng với ai trong nhà; câu chuyện trở
thành nghiêm trọng quá trong pḥng làm việc này mà tụi trẻ con
gọi đùa là Thánh Địa, v́ chúng tuyệt đối không được vào. Nhưng
sáng hôm nay Jacques lên Neuchatel mua giày đi núi. Thấy trời
đẹp, ăn sáng xong lũ trẻ lại ra ngoài dạo chơi với Gertrude
(Charlotte â n cần với Gertrude làm tôi mát ruột). Thành thử tới
lúc uống trà như thường lệ trong căn pḥng lớn, th́ chỉ c̣n hai
vợ chồng ở nhà. Đây cũng là điều tôi muốn, v́ tôi cũng cần nói
chuyện với vợ. Ít khi tôi có dịp nói chuyện riêng với nàng nên
cảm thấy như rụt rè, và tầm quan trọng những điều sắp nói với
nàng làm tôi lúng túng, tựa hồ như sắp phải bàn về chuyện riêng
của chính tôi thay v́ tâm sự mới thổ lộ của con. Tôi ghi nhận là
vợ chồng chung sống suốt đời, yêu nhau mà vẫn có thể là xa lạ
cách biệt (hay sự cách biệt này về sau mới tới); câu chuyện vợ
chồng trao đổi nghe lạc lơng như những tiếng cồng dọ dẫm, bị dội
lại v́ một bức tường ngăn cách, nếu không coi chừng mỗi ngày một
bịt bùng thêm.
Tôi nói lúc vợ tôi rót trà:
“Thằng Jacques vừa nói chuyện với anh chiều qua. Nó bảo nó yêu
con Gertrude.”
Hôm qua giọng thằng Jacques chững chạc bao nhiêu th́ hôm nay
giọng tôi lại ngập ngừng bấy nhiêu. Vợ tôi tiếp tục rót trà, trả
lời mà mắt không nh́n tôi:
“Nó thưa với anh là phải.”
Giọng nàng b́nh thản, làm như câu chuyện vừa nói hoàn toàn b́nh
thường, hay đúng ra không có ǵ mới.
“Nó bảo nó muốn cưới con bé làm vợ. Nó quyết định…”
Nàng nhún vai, khẽ nói:
“Chuyện này th́ ai cũng đă tiên đoán.”
“Em cũng đă ngờ vậy sao?”
“Ai cũng thấy trước từ lâu là chuyện sẽ đến. Chỉ có điều là loại
việc này đàn ông không biết để ư.”
Tôi thấy không được việc ǵ căi với nàng về đàn ông thế này thế
khác, vả lại ư nàng cũng có phần đúng, tôi chỉ trách nhẹ:
“Nếu thấy vậy, lẽ ra em nên cho anh hay.”
Nàng cười mím góc môi, nụ cười quen thuộc mỗi khi nàng không
muốn bàn thêm về một chuyện ǵ. Rồi khẽ lắc đầu, nàng nói:
“Đi theo mà nhắc anh những chuyện anh không để ư th́ bao giờ cho
hết.”
Nàng định ám chỉ ǵ đây. Tôi không biết mà cũng không muốn biết.
Tôi làm làm lơ như không để ư:
“Anh muốn biết ư kiến em về việc này.”
Nàng thở dài:
“Như anh vẫn biết, em không bao giờ ưng thuận chuyện mang con bé
về nhà.”
Thấy nàng lại nhắc đến chuyện cũ, tôi gắng dằn nóng giận. Tôi
nhắc nàng:
“Anh đâu có hỏi ư kiến em về con Gertrude.”
Nhưng Amélie vẫn nối tiếp ư cũ:
“Ngay từ ngày đầu, em đă nghĩ là con bé chỉ đem lại những điều
đáng tiếc cho nhà này.”
Nắm lấy cơ hội, tôi nói theo đà:
“Th́ ra em cũng không tán thành hôn nhân này. Thực ra, anh cũng
mong em nghĩ vậy. Anh sung sướng thấy vợ chồng ḿnh đồng ư điểm
này.”
Tôi cũng cho nàng hay là Jacques đă ngoan ngoăn vâng lời cha, và
nàng không c̣n phải bận tâm về việc này nữa. Mọi chuyện đă thỏa
thuận là ngày mai nó sẽ lên đường để đi du lịch một tháng.
Sau cùng tôi nói thêm:
“Anh cũng như em, anh không muốn chúng nó c̣n gặp nhau nữa khi
Jacques du lịch trở về. Anh nghĩ tốt nhất là gửi Gertrude cho cô
Louise de la M. nuôi. Anh vẫn có thể tiếp tục đến thăm con bé.
Anh có trách nhiệm với Gertrude. Cô Louise sẵn sàng chiều ư vợ
chồng ḿnh. Như vậy, em cũng khỏi bực ḿnh, không c̣n phải hàng
ngày thấy mặt Gertrude. Cô Louise sẽ săn sóc cho con bé. Cô ta
rất hài ḷng v́ vụ sắp xếp này. Cô ta đang náo nức v́ sẽ được
dạy nhạc cho nó.”
Thấy Amélie nhất định không chịu hé răng, tôi nói tiếp:
“Anh muốn ngăn ngừa chuyện Jacques sẽ th́ thụt chạy sang nhà cô
Louise t́m gặp Gertrude. Anh tính cho cô Louise biết hết câu
chuyện. Em nghĩ có nên không?”
Tôi trực tiếp hỏi ư kiến nàng, dụng ư buộc nàng nói chuyện.
Nhưng nàng mím môi nhất định không góp ư. Tôi lại nói, không
phải có điều ǵ quan trọng, mà v́ thái độ yên lặng của vợ làm
tôi khó chịu:
“Có thể khi Jacques du lịch về, nó không c̣n si mê nữa. Ở tuổi
nó, người ta nhiều khi không biết ḿnh muốn ǵ.”
Đến đây, Amélie chêm vào một câu kỳ cục tối nghĩa:
“Ô, nói chi tuổi nó. Già nữa mà có khi cũng không biết ḿnh muốn
ǵ nữa là.”
Bản tính ngay thẳng ghét chuyện úp mở, tôi bực ḿnh v́ giọng
điệu bí hiểm và nghe như có ẩn ư kết tội của vợ. Tôi quay lại,
bảo Amélie muốn ám chỉ điều ǵ th́ cứ việc nói thẳng ra. Buồn
bă, nàng chậm răi:
“Không, em không muốn ám chỉ ǵ cả. Chỉ tại em tưởng anh dặn em
phải cảnh giác anh những chuyện anh vô tâm không để ư đến thôi.”
“Rồi sao nữa?”
“Rồi em thấy không dễ ǵ mà cảnh giác được ai.”
Như đă nói, tôi ghê sợ bóng gió úp mở, và như một nguyên tắc,
tôi nhất định không bận tâm v́ những những lời nói mánh. Tôi đối
đáp, giọng có hơi phũ phàng:
“Khi nào em muốn anh hiểu em, th́ hăy gắng nói cho minh bạch rơ
ràng.”
Vừa lỡ miệng, tôi đă ân hận. Tôi nhận thấy môi nàng run run.
Nàng quay mặt, rồi ngập ngừng đứng dậy, nàng bước đi mấy bước
lảo đảo. Tôi nói với theo:
“Amélie, anh không hiểu sao em c̣n buồn bực. Mọi việc đă chẳng
thu xếp êm đẹp rồi sao?”
Nàng ngại ngùng tránh mắt tôi. Lưng quay lại vợ, khuỷu tay chống
bàn, hai tay ôm đầu, khốn khổ, tôi nhỏ nhẹ với nàng:
“Xin lỗi em, anh đă nặng lời với em.”
Tôi nghe tiếng nàng bước trở lại, rồi những ngón tay nàng nhẹ
nhàng vuốt nhẹ trán tôi. Nàng dịu dàng, giọng đầy nước mắt:
“Tội nghiệp chồng em.”
Rồi nàng bước ra khỏi pḥng. Lúc đó tôi không hiểu những lời bí
ẩn của Amélie. Măi về sau tôi mới vỡ nghĩa. Trước tiên tôi chỉ
ghi lại cho đúng nguyên văn. Hôm đó chỉ có điều rơ ràng cho tôi
là đă đến lúc Gertrude phải rời khỏi nhà này.
o0o
Ngày 12 tháng Ba.
Tôi tự cho ḿnh bổn phận phải dành th́ giờ cho Gertrude mỗi
ngày; có khi là vài giờ, có khi là vài khắc, tùy theo công việc
hàng ngày bận bịu hay rảnh rang. Sau hôm nói chuyện với Amélie,
thời tiết tốt như mời mọc, lại được dịp nhàn rỗi, tôi đưa
Gertrude vào rừng dạo chơi. Tôi dẫn nàng tới một vùng gần đỉnh
Jura, nơi mà nh́n qua hàng cây lơ thơ, quá cánh đồng mênh mông
bát ngát dưới bóng núi, khi trời quang có thể bao quát được tất
cả dẫy núi Alpes phủ tuyết hiện ra phía trên màn sương mù. Tới
góc rừng quen thuộc nơi chúng tôi thường tới ngồi chơi, th́ mặt
rời đă chênh chếch về phía trái. Dưới chân chúng tôi trải dài
nội cỏ thấp và dầy; xa hơn nữa vài ba con ḅ gậm cỏ; như ḅ miền
núi chúng đều đeo chuông ở cổ. Lắng nghe tiếng chuông leng keng,
Gertrude nói:
“Đàn ḅ đang kể lại cảnh vật cho con.”
Và như thường lệ, nàng đ̣i tôi tả cho nàng phong cảnh trước mặt.
Tôi nhắc nàng:
“Nhưng chỗ này con biết rồi mà. Chính là khoảng rừng thưa nh́n
ra núi Alpes đó con.”
“Núi hôm nay trông có rơ không?”
“Hôm nay núi Alpes hiện ra cực kỳ huy hoàng hùng vĩ.”
“Nhưng Mục sư bảo con là cảnh núi thay đổi mỗi ngày mà.”
“Vậy để ta thử nhé. Lấy ǵ mà ví nhỉ? À, ví với cơn khát giữa
ngày hè. Lát nữa đến chiều, chắc núi sẽ tan vào không trung
mất.”
“Con muốn Mục sư cho con hay là có thấy hoa huệ đồng nở trong
nội cỏ trước mặt ḿnh không.”
“Gertrude con, huệ không mọc trên núi cao thế này. Họa chăng chỉ
một vài loại hiếm hoi mà thôi.”
“Ngay cả những cánh đồng gần Neuchatel cũng không có huệ sao?”
“Huệ không mọc ngoài đồng.”
“Thế sao Chúa lại phán rằng: Các con hăy chiêm ngưỡng những bông
huệ của đồng nội?”
“Chắc thời Chúa, hoa huệ c̣n mọc dại ngoài đồng. Có lẽ về sau
người ta khẩn hoang canh tác nên không c̣n nữa.”
“Con nhớ Mục sư thường giảng là Tin và Yêu là những điều vô cùng
cần thiết cho thế gian này. Mục sư có nghĩ là chỉ cần tin một
chút, người ta có thể thấy hoa huệ lại nở trên cánh đồng không?
Mục sư biết không, sau khi nghe lời Phúc Âm này, con quả quyết
là con đă thấy được hoa. Mục sư có muốn con tả cho Mục sư nghe
không? Đây này, hoa đẹp tuyệt vời, hoa giống như những chuông
màu lửa đỏ, hay màu thiên thanh, ăm ắp hương thơm của t́nh
thương, những cái chuông xinh xắn mà gió chiều rung rinh mơn
trớn. Vậy mà sao Mục sư lại bảo con là cánh đồng không có hoa.
Con ngửi được hương hoa mà. Con thấy hoa nở đầy ắp cánh đồng…
“Gertrude cưng, hoa thật không thể đẹp hơn hoa con thấy.”
“Mục sư nói đi, hoa thật ít ra cũng không xấu hơn phải không?”
“Hoa đẹp in hệt như ư con muốn.”
Nàng đọc lớn, kể lại đoạn Phúc Âm:
“Và ta nói thật cùng các con, rằng ngay cả vua Salomon dù lúc
cực kỳ hiển vinh, phục sức cũng không thể huy hoàng hơn…”
Tiếng nàng du dương như âm nhạc, và tôi có cảm tưởng như được
nghe đoạn Phúc Âm ấy lần đầu. Đọc xong, nàng lẩm nhẩm một ḿnh
‘Cực kỳ hiển vinh’, rồi yên lặng giây lâu.
Tôi nối tiếp câu chuyện:
“Gertrude, ta vẫn nói với con, những kẻ có thị giác lại chính là
những kẻ không biết nh́n.”
Và từ đáy ḷng, tôi nghe dâng trào lên lời kinh cầu “Con đội ơn
Chúa đă chỉ cho kẻ ngu độn những điều mà ngài đă giấu những
người tinh thông.” Nàng bỗng cất tiếng, giọng thích thú và đầy
cao hứng:
“Mục sư ơi, nếu Mục sư biết, nếu Mục sư có thể biết con có thể
h́nh dung dễ dàng làm sao tất cả phong cảnh trước mặt. Dễ lắm.
Đây này, để con tả cho Mục sư nhé… Đằng sau chúng ḿnh, bên
trên, cũng như xung quanh, là rừng bách với những cây Mă Vĩ Tùng
cổ thụ, thơm mùi nhựa thông, thân cây màu thạch lựu, có những
tàn lá x̣e ngang ra bên, rên rỉ nhè nhẹ mỗi khi gió thổi uốn
cành. C̣n dưới chân chúng gauguin_alyscampsḿnh là nội cỏ bao
la, xanh ngát, tựa như một quyển sách mở rộng, dựa nghiêng
nghiêng trên sườn đồi chân núi. Trên trang sách, có chỗ tô màu
lục đậm v́ bóng mây, có chỗ lại tô màu vàng v́ ánh nắng. Trang
sách đầy chữ, mỗi chữ là một bông hoa. Nào hoa khổ-sâm, nào hoa
bạch-đầu-ông, nào hoa mao-lương, và tất nhiên là có hoa huệ đồng
của vua Salomon. Và có những con ḅ cổ đeo chuông, bước tới đánh
vần từng chữ, và thiên thần cũng bay tới đọc, v́ như Mục sư nói,
mắt người trần gian khép kín không đọc được sách này. Dưới trang
sách con thấy vẽ một con sông sữa trắng bốc khói, phủ sương mù,
che giấu một vực thẳm huyền bí, một con sông rộng không thấy bờ
bên kia, trong khi ngoài cơi xa xăm trước mặt là núi Alpes lộng
lẫy hùng vĩ… Anh Jacques phải đi đến đó phải không Mục sư. Mục
sư nói cho con đi. Ngày mai anh ấy phải lên đường phải không? “
“Đúng, mai anh ấy phải đi. Anh ấy nói với con sao?”
“Anh ấy không nói, nhưng con hiểu. Anh ấy phải vắng nhà bao
lâu?”
“Khoảng độ một tháng… Gertrude con, ta muốn hỏi con… là sao con
không cho ta hay khi Jacques tới gặp con ở nhà thờ.”
“Anh ấy đến gặp con cả thảy hai lần. Ô! Con đâu có muốn giấu Mục
sư chuyện ǵ. Con chỉ sợ làm Mục sư phiền ḷng.”
“Con không nói, ta mới phiền ḷng.”
Tay nàng t́m tay tôi:
“Phải ra đi, anh ấy buồn lắm.”
“Gertrude con, anh ấy có nói với con là anh ấy yêu con không?”
“Anh ấy không nói. Nhưng chuyện như vậy, dù không nói con cũng
biết. Anh ấy không yêu con bằng Mục sư yêu con.”
“C̣n con, anh ấy phải lên đường, con có đau khổ không?”
“Mục sư biết quá rồi c̣n hỏi con. Con chỉ yêu có Mục sư thôi… Ô,
sao Mục sư lại rút tay lại. Nếu Mục sư chưa vợ, con đâu dám nói
với Mục sư như thế này. Nhưng mà ai mà lấy người mù làm vợ. Vậy
th́ tại sao chúng ḿnh lại không được yêu nhau. Mục sư ơi, nói
con nghe đi. Mục sư có nghĩ như vậy là xấu không?”
“T́nh thương không bao giờ xấu.”
“Trong ḷng con con chỉ thấy tốt lành. Con không muốn làm cho
Jacques đau khổ. Con cũng không muốn làm cho bất cứ ai đau khổ.
Con chỉ muốn mang hạnh phúc lại cho mọi người.”
“Jacques muốn hỏi con làm vợ.”
“Mục sư có cho phép con nói chuyện với anh ấy trước khi anh ấy
lên đường không? Con muốn anh ấy hiểu là anh ấy phải quên con
đi. Mục sư hiểu con. Mục sư biết là con không thể lấy chồng
được. Mục sư để cho con nói với anh ấy đi.”
“Ngay chiều nay nhé?”Không, ngày mai, chính lúc anh ấy lên
đường…”
Mặt trời đi ngủ trong một buổi hoàng hôn cực kỳ lộng lẫy. Không
khí ấm áp. Chúng tôi đứng dậy, và vui vẻ tṛ chuyện trên đường
về đang đẫm bóng chiều.
Phần IV
Ngày 28 tháng Tư.
Đă lâu tôi bận nên không viết tiếp.
Tuyết đă tan và đường xá đă lưu thông trở lại, tôi phải thanh
toán xong một số công việc bấy lâu ứ đọng khi làng bị tuyết cô
lập. Măi hôm qua tôi mới được chút rảnh rang.
Đêm qua tôi ngồi đọc lại những điều đă viết…
Hôm nay mới dám gọi đúng tên cái t́nh cảm tôi đă không chịu nh́n
nhận suốt thời gian qua, tôi ngạc nhiên làm sao tôi đă có thể
lầm lẫn lâu như vậy; làm sao tôi đă không cảnh giác với những
lời bóng gió tối nghĩa của vợ; làm sao sau những tỏ t́nh thơ
ngây của Gertrude, tôi c̣n hồ nghi t́nh yêu tôi dành cho nàng.
Có lẽ không chấp nhận yêu đương ngoài hôn nhân, tôi không muốn
thấy luyến ái đam mê đang kéo tôi về Gertrude là điều ǵ cấm kỵ.
Sự ngây thơ khi nàng tỏ t́nh, cũng như sự thật thà của sự tỏ
t́nh ấy làm tôi yên bụng. Tôi tự nhủ, nàng chẳng qua là đứa trẻ.
Nếu là chính thực yêu đương, làm sao lại không có thẹn thùng xấu
hổ? C̣n phần tôi, tôi đă tự thuyết phục rằng chẳng qua là ḿnh
xót thương một em bé tật nguyền. Tôi nghĩ tôi săn sóc Gertrude
như người ta săn sóc bệnh nhân, và từ sự dạy dỗ nàng tôi đă tạo
ra một trách nhiệm tinh thần, một bổn phận. Đúng, sau hôm nói
chuyện với nàng như tôi đă kể, tôi v́ thấy ḷng nhẹ nhàng và
hạnh phúc nên lại lầm lẫn nữa khi ghi lại những lời nàng tỏ
t́nh. Tôi nghĩ, yêu nàng trong cảnh tôi là điều đáng khinh bỉ,
và chuyện ǵ đáng khinh bỉ tất làm tâm hồn nặng nề tŕ trệ. Nên
chi, không thấy tâm hồn tŕ trệ nặng nề, tôi đă tưởng là ḿnh
không yêu.
Hôm đó ngồi ghi nhật kư, tâm hồn trong sáng thảnh thơi, tôi đă
không nhận ra; giờ đây đọc lại những hàng chữ đó tôi mới hiểu
ḷng ḿnh…
Kể từ hôm Jacques đi- tôi đă để Gertrude nói chuyện với con trai
tôi, và nó chỉ về nhà mấy ngày cuối hè, làm bộ tránh né hay chỉ
nói chuyện với Gertrude những lúc tôi có mặt- cuộc sống chúng
tôi trở lại b́nh thường. C̣n Gertrude, như đă thu xếp, dọn tới
nhà cô Louise ở. Ngày ngày, tôi đến thăm nàng. Nhưng vẫn c̣n e
dè t́nh yêu, tôi làm bộ tránh nói với nàng những điều có thể làm
chúng tôi xúc động. Tôi nói chuyện như Mục sư nói với con chiên,
thường thường trước mặt cô Louise. Tôi chuyên tâm dạy nàng giáo
lư, sửa soạn lễ thông công cho nàng vào dịp lễ Phục Sinh vừa
rồi.
Hôm lễ Phục Sinh, chính tôi cũng rước lễ. Sự việc xảy ra đă mười
lăm hôm. Tôi ngạc nhiên, Jacques đang nghỉ lễ ở nhà một tuần,
không theo tôi ra ban thờ Chúa. Tôi cũng rất buồn phải nói là
Amélie, lần đầu tiên từ ngày lấy nhau, đă không theo chồng làm
lễ. H́nh như cả hai mẹ con đă hẹn nhau tẩy chay không tới tham
dự, chủ tâm làm giảm niềm vui của tôi. Cũng mừng là Gertrude mù
ḷa, nên tôi một ḿnh được gánh vác nỗi buồn. Tôi quá biết
Amélie để không hiểu thái độ trách móc gián tiếp của nàng. Không
bao giờ nàng chống đối chồng ra mặt, nhưng dùng sự xa lánh để tỏ
ư bất măn.
Tôi rất buồn chỉ v́ bực dọc chừng ấy- tôi muốn nói tầm thường
đến nỗi không đáng đếm xỉa- mà Amélie đă hạ tâm hồn tới mức quên
mất những chuyện cao cả. Hôm đó về nhà tôi chân thành cầu nguyện
cho nàng.
C̣n Jacques tẩy chay lễ rửa tội v́ một lư do hoàn toàn khác
biệt, mà măi về sau nói chuyện với con tôi mới hiểu.
o0o
Ngày 3 tháng Năm.
Nhân dịp dạy dỗ giáo lư cho Gertrude, tôi có dịp đọc lại Phúc Âm
với nhăn quan mới. Tôi thấy rơ là những cấm kỵ trong giáo điều
không phải từ lời Chúa, mà do thánh Paul đặt ra.
gauguin_christ-jaune Đây chính là đề tài thảo luận sôi nổi giữa
tôi và Jacques. Tính t́nh hơi khô khan, trái tim nó thiếu t́nh
thương để nuôi dưỡng suy tư; nó trở nên bảo thủ và nặng giáo
điều. Nó trách tôi đă chọn trong giáo lư những điều tôi thích.
Nhưng tôi đâu có dám gạn lọc lời Chúa, để lựa riêng ra điều này
điều nọ. Tôi chỉ chọn Chúa thay v́ chọn thánh Paul.
C̣n con trai tôi sợ thấy đối lập giữa Chúa và Thánh, đă không
chịu ghi nhận sự khác biệt về mạc khải giữa hai vị, và phản đối
khi tôi bảo rằng một đằng là người trần gian, c̣n một đằng là
Chúa. Nó càng căi lư th́ tôi càng thấy rơ là Jacques không nhạy
bén với những ǵ thiêng liêng trong lời Chúa dạy.
Tôi lục t́m trong Phúc Âm mà không thấy được dù một mệnh lệnh
hay một đe dọa hay một cấm đoán nhỏ… Tất cả những thứ ấy đều từ
Thánh Paul mà ra.
Jacques lúng túng v́ không t́m được mệnh lệnh hay đe dọa trong
lời Chúa. Những linh hồn như nó thường hốt hoảng nếu không được
d́u dắt, nếu thiếu lan can để vịn cho khỏi sa ngă lầm lạc. Hơn
nữa, họ khó chịu khi thấy kẻ khác dám hưởng quyền tự do mà họ đă
tự chối bỏ. Lúc nào họ cũng g̣ bó, bắt buộc, để đoạt được những
mục tiêu mà lẽ ra có thể thu hoạch dễ dàng qua t́nh thương. Nó
bảo tôi:
“Nhưng thưa Ba, con đâu có chối bỏ hạnh phúc của tâm hồn.”
“Không phải đâu. Con muốn tâm hồn phải phục ṭng.”
“Hạnh phúc nằm trong phục ṭng giáo điều.”
Tránh căi lư giằng co với con, tôi không đáp lại; tuy nhiên tôi
biết rơ rằng hạnh phúc sẽ bị sứt mẻ nếu ta đ̣i hỏi phải phục
ṭng trước mới được hưởng hạnh phúc sau, thay v́ coi sự phục
ṭng là kết quả tất nhiên một khi có hạnh phúc- và rằng một tâm
hồn yêu thương sẵn ḷng phục ṭng, nhưng không có ǵ có thể xa
cách hạnh phúc hơn là phục ṭng mà không yêu thương.
Ngoài ra Jacques lập luận rất vững chăi. Nếu không v́ buồn ḷng
thấy nó c̣n trẻ mà đă quá cứng cỏi về giáo lư, th́ tôi phải công
nhận lập luận của nó rất chỉnh và luận lư của nó rất nhất quán.
Nhiều khi tôi thấy ḿnh c̣n trẻ hơn con; trẻ hơn chính bản thân
ḿnh so với hôm qua, và tôi lẩm nhẩm lời Phúc Âm, rằng ‘Nếu các
người không trở lại thành trẻ nhỏ, làm sao các người được nhận
vào nước Chúa?’
Thấy trong Phúc Âm con đường dẫn tới cuộc sống hạnh phúc, đâu có
phải là phản Chúa, là phản Thánh Kinh? Hạnh phúc mà tính ngờ vực
và trái tim chai sạn cấm đoán, hạnh phúc đó chính là bổn phận
của con chiên. Ai cũng có khả năng hạnh phúc. Về điều này, tôi
học được từ nụ cười của Gertrude nhiều hơn là nàng học được từ
tất cả những bài giáo lư tôi đă dậy nàng.
Và lời Chúa sừng sững sáng ngời trước mắt tôi, ‘Nếu con mù ḷa,
con sẽ không có tội’. Tội lỗi là những điều làm cho tâm hồn vẩn
đục, những điều đối kháng với hạnh phúc. Hạnh phúc viên măn và
tỏa ra nơi Gertrude như hào quang như thế là v́ nàng không hề
biết tội lỗi là ǵ. Ở nàng chỉ có sự trong sáng và t́nh yêu.
Tôi trao nàng bốn cuốn Phúc Âm, mấy cuốn Thánh Thi, cuốn Mạc Thị
Lục, và ba tập Sứ Đồ của thánh Jean, trong đó nàng t́m thấy
những lời vàng ngọc như ‘Chúa là ánh sáng, và trong Chúa không
có âm u tối tăm.’ Qua Thánh Kinh, nàng có thể nghe lời Chúa dạy
‘Ta là ánh sáng, kẻ theo ta không sợ tối tăm’ như nàng đă nghe
được lời Chúa rằng ‘Ta là ánh sáng của thế gian; ai đi với ta
không phải bước trong tăm tối.’ Tôi nhất định không cho nàng xem
kinh của thánh Paul, v́ mù ḷa, nàng đâu cần biết đến tội lỗi,
ích ǵ làm cho nàng lo lắng phải đọc những câu như ‘Tội lỗi đă
thu hoạch được những sức lực mới… như trong kinh Romains VII,
13, v..v..
o0o
Ngày 8 tháng Năm.
Bác sĩ Martins chiều qua từ La Chaux de Fonds đến thăm tôi. Anh
lấy vơng mô kính ra khám mắt rất lâu cho Gertrude. Anh cho hay
anh có tŕnh bày trường hợp Gertrude với bác sĩ Roux, vị danh y
nhăn khoa ở Lausanne. Cả hai vị đều đồng ư là mắt Gertrude có
thể mổ sáng lại được. Nhưng chúng tôi quyết định là đợi sự việc
chắc hơn mới cho nàng biết. Sau khi họp với bác sĩ Roux, Martins
sẽ cho tôi hay. Làm nàng hy vọng hụt, đâu có ích ǵ? Vả lại ngay
cả bây giờ, nàng đă chẳng hạnh phúc rồi sao?
o0o
Ngày 10 tháng Năm.
Lễ Phục Sinh, Jacques và Gertrude gặp nhau lại dưới sự chứng
kiến của tôi- ít ra Jacques đă t́m gặp lại Gertrude và đă nói
chuyện với nàng, tuy chỉ là những câu chuyện thông thường. Nó
không tỏ ra xúc động nhiều như tôi đă tưởng. Tôi lại tự trấn tâm
là nếu đă nồng nhiệt, th́ dù năm ngoái có bị Gertrude cho hay là
t́nh nó vô vọng chăng nữa, t́nh đó đă không dễ dập tắt như vậy.
Nó xưng hô ‘cô, tôi’ với nàng, như vậy thật ra chỉnh hơn; tôi đă
không ép nó phải làm vậy, nên rất hài ḷng khi thấy nó biết tự
giác. Không thể phủ nhận là thằng bé có nhiều điểm tốt lành.
Tuy nhiên, tôi vẫn nghĩ là sự phục ṭng của Jacques khắc khoải
khó khăn. Chỉ tiếc rằng nó cho g̣ bó con tim như vậy là thánh
thiện; nó muốn tất cả mọi người cũng g̣ bó như nó; tôi nhận thấy
điều này trong cuộc bàn căi vừa qua với con mà tôi đă kể lại
trước đây. H́nh như La Rochefoucauld có nói, trí tuệ thường bị
con tim đánh lừa. Tất nhiên tôi không dám nhắc nó điều này bây
giờ. Biết tính con bướng bỉnh, khi thảo luận bị trái ư lại càng
bướng bỉnh hơn; nhưng ngay chiều hôm đó, lấy ngay trong kinh
thánh Paul (phải lấy độc trị độc) câu trả lời cho nó, tôi để lại
trong pḥng con mảnh giấy nhỏ chép ‘Rằng kẻ nào không ăn đừng
phán xét kẻ đă ăn, v́ Chúa đă đón nhận người này’. (Romains,
XIV, 2).
Và tôi cũng định chép luôn câu tiếp theo ‘Tôi biết v́ tôi được
Chúa Ky Tô dạy rằng sự vật tự nó không tội lỗi, và chỉ tội lỗi
cho những kẻ muốn thấy tội lỗi’. Nhưng tôi lại đổi ư, sợ rằng
Jacques sẽ có những suy diễn xúc phạm liên quan đến Gertrude,
điều nó không được phép nghĩ tới. Tất nhiên đoạn kinh này nói về
thực phẩm. Nhưng trong kinh thánh, có biết bao nhiêu đoạn có thể
hiểu theo đôi ba ngả khác nhau… (Như đoạn ‘Nếu mắt con’, hay
đoạn làm bánh ḿ biến hóa một thành nhiều, hay đoạn đám cưới
Cana, vân vân). Ở đây không phải chuyện chẻ sợi tóc làm tư; ư
nghĩa đoạn kinh trên rộng và sâu rằng không nên lấy luật mà đ̣i
hỏi giới hạn hay cấm đoán, mà phải lấy t́nh thương… và thánh
Paul đă dơng dạc nói rằng: ‘nếu v́ một món đồ ăn mà buồn phiền,
th́ con đă không theo đạo của t́nh thương.’ Quỷ dữ tấn công
chúng ta v́ thiếu t́nh thương. Lạy Chúa, xin gạn lọc khỏi tim
con tất cả những điều ǵ không phải là t́nh thương… V́ tôi đă
lầm khi trêu tức Jacques. Ngày hôm sau tôi t́m thấy trên bàn tôi
miếng giấy tôi viết cho nó. Nó viết lại mặt sau, một câu kinh
khác, cũng chương đó rằng ‘Đừng v́ món ăn của con mà làm hại đến
kẻ Chúa đă xả thân cứu rỗi’. (Romains XIV, 15).
Tôi đọc lại cả chương sách một lần nữa. Thật ra đề tài này mà
căi lư th́ không bao giờ hết. Nhưng tội ǵ lại vẩn đục cả bầu
trời trong sáng của Gertrude với những thắc mắc dằn vặt loại
này. Hai chúng tôi gần gũi với Chúa biết bao, khi tôi dạy
Gertrude là tội lỗi nặng nhất là làm phương hại đến hạnh phúc
của người khác cũng như của chính ḿnh.
Buồn thay, có những linh hồn không có khả năng chấp nhận hạnh
phúc; v́ kém cỏi vụng về… Tôi chạnh ḷng nghĩ đến vợ. Tôi luôn
luôn chào mời nàng hưởng lấy hạnh phúc, xô đẩy nàng về phía hạnh
phúc, gần như cưỡng ép hạnh phúc lên nàng. Đúng, ḷng tôi muốn
nâng mọi người lên cao để hưởng ơn phước Thượng Đế. Nhưng nàng
vẫn khăng khăng trốn chạy, tâm hồn luôn luôn khép kín như những
loài hoa sầu muộn, mà không nắng nào có thể măn khai. Chuyện ǵ
cũng có thể làm cho nàng lo lắng bận tâm.
Một hôm nàng nói với tôi:
“Biết làm sao đây? Em không có may mắn được mù ḷa.”
Chao ôi, lời nàng mai mỉa cay đắng làm sao. Đạo đức nào che chở
cho tôi khỏi bị tổn thương bởi miệng lưỡi độc ác này. Tối thiểu
nàng cũng phải biết tôi đau đớn dường nào, nếu ai ám chỉ đến tật
nguyền của Gertrude. Nhưng hành động của vợ tôi làm tôi cảm thấy
ḷng vị tha nơi Gertrude lại càng cao quư hơn. Gertrude chưa hề
mở miệng trách móc hay oán hờn bất cứ một ai bao giờ. Thật ra
tôi không để nàng biết những chuyện có thể thương tổn nàng.
Nếu một tâm hồn hạnh phúc tỏa hào quang ra và reo rắc t́nh
thương và niềm vui, th́ xung quanh Amélie chỉ có tối tăm bệnh
hoạn. Nếu Amiel nhà văn chuyên về bất an của đời sống tả nàng,
chắc ông ta đă viết rằng tâm hồn Amélie phát ra những tia sáng
đen. Sau một ngày thăm viếng những kẻ ốm đau tật nguyền, tôi về
nhà mệt mỏi từ tâm hồn đến thể xác, mong đợi một t́nh yêu đầm
ấm… vậy mà tôi chỉ t́m được những lo lắng buồn phiền hay đay
nghiến oán trách. Mưa lạnh gió buốt bên ngoài c̣n muôn vàn dễ
chịu hơn. Tôi biết vú già Rosalie nhiều khi cứng đầu chỉ muốn
làm theo ư ḿnh, tuy nhiên không phải bao giờ vợ tôi cũng đúng
mà người làm cũng sai. Tôi cũng thừa biết là thằng Gaspard và
con Charlotte là hai đứa trẻ tinh nghịch, nhưng nàng có thể
thành công hơn nếu bớt to tiếng và kềm kẹp chúng suốt ngày. Lúc
nào cũng mắng, lúc nào cũng phạt, thét ra rồi chúng chai ĺ rắn
mày rắn mặt như sỏi đá. Kết quả là nhà tôi mắng chửi con mà chỉ
có ḿnh tôi khó chịu. Tôi cũng biết thằng út Claude mọc răng,
nhưng nó vừa o oe là Amélie hay Sarah lại chạy lại bế ẵm… như
thế có khác ǵ là khuyến khích cho nó hay nhè. Tôi tin rằng nó
sẽ ít hét hơn nếu cứ để hét vài lần cho thỏa thích khi tôi không
có ở đấy. Nhưng tôi biết chỉ những lúc tôi có mặt hai mẹ con mới
vội vă bế nó.
Sarah càng lớn càng giống mẹ, làm tôi muốn bỏ nó vào nội trú.
Sarah không giống mẹ khi Amélie c̣n trẻ vào cỡ tuổi nó khi chúng
tôi mới đính hôn. Không, nó giống như mẹ nó bây giờ, sau tất cả
những lo lắng và bận tâm của đời sống vật chất, tôi muốn nói sau
cái thú nuôi dưỡng lo âu phiền muộn (v́ quả thật Amélie có cái
thú này). Nh́n vợ bây giờ, tôi không thể tưởng tượng lại h́nh
ảnh nàng tiên mỉm cười với mỗi ước vọng hướng thượng của tôi,
người con gái mà tôi muốn gắn bó tất cả cuộc đời, vị thiên thần
đi trước và kéo tôi về phía ánh sáng _ Phải chăng t́nh yêu thủa
đó đă làm tôi mù quáng? Bây giờ nơi con gái, tôi chỉ thấy những
bận tâm nhỏ nhen tẹp nhẹp như mẹ nó. Ngay cả dung nhan nó thiếu
cái ấm t́nh nội tâm, sao mà cứng cỏi buồn bă. Nó không thích thi
ca, mà cũng chẳng ham sách vở; tôi chưa từng bắt gặp hai mẹ con
bàn bạc chuyện ǵ mà tôi muốn dự vào; bên cạnh vợ con tôi c̣n
thấy cô đơn hơn là khi lui vào pḥng làm việc, điều mà mỗi ngày
tôi làm mỗi nhiều hơn.
Từ độ sang thu ngày ngắn dần, tôi hay sang nhà cô Louise dùng
trà, mỗi khi mục vụ xong sớm và có dịp rảnh rỗi. Tôi quên chưa
kể từ tháng mười một, cô Louise đă nhận thêm mấy em bé mù do bác
sĩ Martins gửi tới; Gertrude bây giờ trở thành cô giáo kèm học
các em, và kết quả thật khả quan.
Biệt thự La Grange đầm ấm và an b́nh biết bao. Nếu hai ba hôm
liền mà không tới được, tôi thấy khổ sở thiếu thốn làm sao. Cô
Louise thật ra không phải vất vả lắm khi chăm sóc cho Gertrude
và ba em bé mù; ba người làm tận tâm phục vụ, đỡ đần cô chủ
những việc nặng nhọc. Nhưng phải nói là tiền của và thời gian xử
dụng như vậy không thể c̣n cách nào xứng đáng hơn. Cô luôn luôn
tỏ ḷng thương người khốn khó. Thật là một tâm hồn ngoan đạo,
một thiên thần tạm lưu lại cơi trần chỉ v́ yêu thương và muốn
giúp đỡ kẻ khác; dù cô đă có tuổi, mái đầu đă bạc trắng, nhưng
không có ǵ trẻ trung hơn nụ cười của cô, hài ḥa hơn dáng điệu
của cô, êm đềm hơn giọng cô nói. Gertrude đă học được nơi cô,
không những về lời ăn tiếng nói, mà c̣n về đường lối suy nghĩ
cũng như cung cách toàn diện con người. Tôi hay trêu hai người
về sự giống nhau này, nhưng cả hai không nhận thấy như tôi. Thật
là êm đềm cho tôi, nếu hôm nào có th́ giờ ở lại trễ với họ, ngắm
họ ngồi bên nhau, Gertrude tựa đầu vào vai cô Louise, hay để cô
cầm tay, nghe tôi đọc thơ Lamartine hay Hugo; sung sướng tuyệt
vời cho tôi khi được ngắm ư thơ mỹ miều phản chiếu lại từ hai
tâm hồn trong sáng. Tốt lành lan tràn đến ba em bé mù. Trong môi
trường an b́nh và ấm t́nh thương, chúng tiến bộ nhanh chóng. Mới
đầu tôi không tin, khi cô Louise nói đến chuyện cho các em học
khiêu vũ, vừa giải trí mà lại tốt cho sức khỏe; nhưng bây giờ
tôi phải thán phục tài vũ của các em, khi ngắm những bước điệu
uyển chuyển các em thực hiện được. Chỉ tiếc các em không có thị
giác để biết ḿnh nhảy khéo đến đâu. Tuy nhiên cô Louise thuyết
phục tôi rằng tuy không thấy được bằng mắt cái đẹp của những
động tác khéo léo, các em vẫn cảm được qua cơ bắp ḿnh. Gertrude
cũng tham dự vào những điệu vũ này với duyên dáng, và cũng tỏ ra
rất thích thú. Có lúc cô Louise nhảy chung với các em, trong khi
Gertrude ngồi đàn dương cầm. Tiến bộ của nàng về âm nhạc thật là
bất ngờ; bây giờ nàng phụ trách cây phong cầm mỗi chủ nhật, và
đệm cho những buổi cầu kinh sáng chủ nhật bằng những đoạn ngắn
tùy hứng.
Gertrude thường tới tôi ăn trưa với gia đ́nh; đám con tôi rất
mừng mỗi khi nàng tới, tuy rằng sở thích và thẩm mỹ của nàng mỗi
ngày mỗi khác với chúng. Amélie nói chung, không tỏ ra khó chịu
lắm, và bữa ăn thường thường trôi qua êm đẹp. Xong bữa, chúng
tôi tiễn Gertrude về lại biệt thự La Grange, và chúng tôi ở đó
tới chiều để uống trà. Đúng là một dịp vui hiếm có cho đám con
tôi, và cô Louise có ǵ ngon ngọt là đem ra đăi chúng. Cả
Amélie, thường không nhậy ứng với sự tiếp đón ân cần nói chung,
cũng thư giăn, và sau cùng cũng như có phần trẻ lại trong những
dịp thăm viếng này. Tôi nghĩ nàng cũng thích thói quen mới này,
như một chút nhàn hạ cho cuộc sống vội vàng tất bật của nàng, và
nếu phải bỏ chắc nàng sẽ thấy cũng hơi khó khăn.
o0o
Ngày 18 tháng Năm.
Bây giờ thời tiết đă ấm áp, và tôi lại có dịp dẫn Gertrude ra
ngoài, việc đă không làm khá lâu (v́ tuyết lại rơi, và măi gần
đây đường xá ở trong t́nh trạng lầy lội). Vả lại lâu lắm tôi
cũng không có dịp gặp riêng nàng.
kand1 Ra khỏi nhà, chúng tôi vui vẻ rảo bước; gió lạnh làm nàng
đỏ má, thổi mấy lọn tóc vàng phất phơ trước trán. Lúc đi dọc
theo một đầm lầy, tôi với tay hái vài bông cói mới nở cho nàng
gài dưới mũ và bím vào mái tóc để giữ cho khỏi bay.
Một lát rồi mà chúng tôi vẫn chưa nói chuyện, như c̣n ngạc nhiên
sung sướng v́ thú vui được gặp riêng nhau, khi Gertrude bỗng
ngoảnh lại hỏi tôi:
“Mục sư có nghĩ là anh Jacques c̣n yêu con không?”
Tôi vội trả lời:
“Anh ấy đă cam kết không theo đuổi con nữa.”
Nàng lại hỏi:
“Mục sư có nghĩ là anh ấy biết Mục sư yêu con không?”
Từ câu chuyện mùa hè năm ngoái tôi đă kể, từ sáu tháng nay chúng
tôi không nói đến yêu đương. Chúng tôi không có dịp gặp riêng
nhau, mà kể như vậy cũng là điều hay… Bây giờ câu hỏi của
Gertrude làm tim tôi đập liên hồi, đến nỗi tôi phải chậm bước
lại. Tôi đáp:
“Ai chả biết là ta thương con.”
Nàng không chịu thua:
“Không đâu. Như vậy là Mục sư không trả lời câu con hỏi.”
Một giây yên lặng trôi qua, nàng cúi đầu khẽ nói:
“D́ Amélie biết. Mà con biết là biết điều này, D́ con buồn lắm.”
“Không có chuyện này th́ D́ cũng vẫn buồn. Bản tính D́ không bao
giờ vui.”
Nàng có vẻ bực ḿnh:
“Ô! Mục sư luôn luôn t́m cách làm con an ḷng. Con không muốn an
ḷng như vậy. Con biết có nhiều chuyện Mục sư giấu con, sợ con
buồn. V́ có nhiều chuyện con không được biết, nên nhiều khi con
nghĩ…”
Giọng nàng nhỏ dần rồi tắt, tựa hồ như hụt hơi. Bắt lấy mấy chữ
cuối cùng nàng vừa nói, tôi hỏi:
“Nên nhiều khi làm sao hở cưng?”
Nàng tiếp lời, buồn bă:
“Thỉnh thoảng con thấy như thể là tất cả niềm hạnh phúc Mục sư
dành cho con là dựa trên việc con không được biết hết cả mọi
chuyện.”
“Gertrude con, nhưng mà…”
“Không, Mục sư để cho con nói hết: Con không muốn hạnh phúc như
vậy. Hăy hiểu cho con là… Con không cần hạnh phúc. Con muốn biết
sự thật hơn. Có rất nhiều chuyện, nhiều chuyện buồn mà con không
thấy được, nhưng Mục sư không được giấu con. Mấy tháng mùa đông,
con đă suy nghĩ rất nhiều. Mục sư, con sợ rằng thế giới không
đẹp như Mục sư muốn con nghĩ, thậm chí c̣n xấu hơn nhiều lắm.”
Sợ hăi, tôi gắng biện minh:
“Thật ra th́ loài người nhiều khi làm thế giới này xấu đi.”
Đà suy nghĩ của nàng làm tôi lo sợ. Như tuyệt vọng, tôi t́m cách
đổi hướng câu chuyện. Nàng bắt lấy lời tôi nói, như một chiếc
ch́a khóa để cởi mở mối bận tâm. Nàng nói:
“Chính vậy. Con không muốn thân phận con lại làm cho cuộc đời
thêm xấu.”
Trong giây lâu, chúng tôi yên lặng rảo bước. Những lời tôi có
thể nói với nàng chưa nói đă cảm thấy vấp phải những điều nàng
đang nghĩ; tôi sợ nói lỡ ra một câu nào đó có khả năng quyết
định số phận chúng tôi. Nghĩ đến lời anh bạn Martins cho hay mắt
nàng nếu mổ có thể nh́n lại được, ḷng tôi bỗng vô cùng bất an.
Sau cùng nàng nói:
“Con có chuyện muốn hỏi Mục sư, nhưng không biết nói làm sao…”
Tất nhiên là nàng đang vận động tất cả can đảm để nói, mà tôi
cũng đang vận động tất cả can đảm đợi nghe. Nhưng làm sao mà tôi
đoán nổi câu hỏi của nàng:
“Con cái người mù đẻ ra, có bắt buộc phải mù không?”
Trong chúng tôi, tôi không biết ai ngột ngạt hơn ai; nhưng đă
đến thế này th́ chỉ c̣n cách tiếp tục. Tôi nói:
“Không Gertrude, trừ trường hợp bất thường lắm. Thật ra không có
lư do ǵ mà con cái người mù, bẩm sinh là đă phải mù.”
Câu trả lời làm nàng hoàn toàn yên tâm. Tôi muốn hỏi tại sao
nàng lại thắc mắc chuyện này. Không đủ can đảm hỏi thẳng, tôi
vụng về nói quanh:
“Gertrude ạ, phải có chồng rồi mới có con được.”
“Mục sư đừng nói dối con. Con biết sự thật đâu có phải như vậy.”
“Ta chỉ nói những điều đàng hoàng trang trọng. Thật ra có nhiều
chuyện thiên nhiên cho phép, mà phong tục loài người cũng như
luật Chúa không cho.”
“Thế sao Mục sư lại dạy con là luật Chúa chính là luật của T́nh
Thương?”
“T́nh Thương đây là t́nh thương tế độ.”
“Mục sư thương con với t́nh thương tế độ sao?”
“Gertrude cưng. Con dư biết là không phải vậy.”
“Vậy Mục sư cho là t́nh chúng ta vượt ra ngoài phép Chúa sao?”
“Con muốn nói ǵ?”
“Mục sư biết mà. Lẽ ra con không phải là người nói ra chuyện
này.”
Tôi đă hoài công lẩn trốn. Tim tôi đổ hồi, và những lư lẽ nêu ra
lúng túng bất thông. Như điên dại, tôi nói lớn:
“Gertrude… con nghĩ t́nh con tội lỗi?”
Nàng sửa lời tôi:
“Mục sư muốn nói ‘t́nh chúng ḿnh’… Con nghĩ là có tội lỗi.”“Vậy
tính sao hở con?”
Tôi ngạc nhiên thấy trong giọng ḿnh có van xin năn nỉ. Như hụt
hơi, nàng nói tiếp:
“Nhưng dù sao đi nữa, con không thể ngừng yêu Mục sư được.”
Câu chuyện xẩy ra hôm qua. Tôi ngần ngại không ghi chép ngay.
Tôi không c̣n nhớ buổi văn cảnh đó kết thúc làm sao. Chúng tôi
rảo bước như trốn chạy. Tôi gh́ chặt cánh tay nàng. Linh hồn như
đă ĺa khỏi xác, và chỉ một viên sỏi nhỏ trên đường cũng đủ làm
chúng tôi vấp ngă.
Phần V
Ngày 19 tháng Năm.
Sáng nay Bác sĩ Martins trở về. Mắt Gertrude có thể mổ được.
Bác sĩ Roux chuẩn y việc giải phẫu, và yêu cầu đưa nàng lên
Lausanne để trị liệu. Tôi không thể phản đối, tuy vậy vẫn hèn
nhát t́m cách tŕ hoăn để suy nghĩ. Tôi xin cho thư thả, lấy cớ
để sửa soạn nàng về mặt tâm lư… Lẽ ra tôi phải vui mừng, vậy mà
một nỗi hoang mang không tả nổi đè nặng tim tôi. Cứ nghĩ đến
việc cho Gertrude hay là nàng có thể nh́n lại được, ḷng tôi lại
muôn vàn lo sợ…
Đêm 19 tháng Năm.
Tôi đă gặp lại Gertrude, và tôi đă không nói với nàng. Chiều nay
tôi đến biệt thự La Grange, không gặp ai ở pḥng khách, tôi lên
cầu thang tới thẳng buồng nàng. Cả nhà vắng vẻ chỉ có hai chúng
tôi.
Tôi ôm nàng vào ḷng, yên lặng giây lâu. Nàng không chống cự. Và
lúc nàng ngẩng lên, môi chúng tôi chạm nhau…
o0o
Ngày 21 tháng Năm.
Lạy Chúa, phải chăng Chúa đă cho chúng con đêm bao la và đẹp đến
ngần này. Phải chăng Chúa đă v́ con… Khí trời ấm áp, ánh trăng
bên ngoài chiếu qua khung cửa sổ mở rộng, và con lắng nghe cái
tịch mịch bao la của những vùng trời thăm thẳm. Ôi, tim con tan
vào niềm thương yêu thờ phụng con dâng lên tất cả tạo vật, trong
niềm hoan lạc không lời. Con chỉ c̣n biết hết ḷng nguyện cầu.
Con hiểu rồi, nếu t́nh yêu phải trói buộc trong một giới hạn,
th́ lỗi là tại loài người, chớ không phải v́ ư Chúa. Dù t́nh con
với nàng có mang tội với nhân loại, nhưng trăm lạy Ngài, hăy
phán cho con là dưới mắt Ngài, t́nh này vẫn thánh thiện trong
lành.
Con muốn vượt lên trên ư niệm tội lỗi. Con không chịu nổi ư niệm
tội lỗi, và con không muốn bỏ Chúa Ky tô. Không, khi yêu nàng,
con không chấp nhận đây là tội lỗi. Trừ phi phải moi trái tim
con vứt bỏ, con mới hết yêu nàng. Nhưng tại sao? Dù có không yêu
nàng đi nữa, con vẫn phải yêu nàng v́ xót thương. Không yêu nàng
nữa, có khác ǵ là phản bội nàng: nàng không thể thiếu được t́nh
con…
Lạy Chúa, con không c̣n biết ǵ nữa. Con chỉ c̣n biết có Chúa.
Chúa d́u dắt con. Nhiều lúc con ngụp lặn trong tăm tối, như thể
trong khi người ta sắp trả lại thị giác cho nàng, th́ chính con
lại thành kẻ mù ḷa.
Hôm qua Gertrude nhập viện, và sẽ điều trị ở đó độ hai chục
ngày. Tôi vô cùng lo sợ chờ đợi nàng về. Martins sẽ mang nàng về
khi cuộc điều trị hoàn tất. Nàng bắt tôi hứa là phải đợi nàng ở
nhà, và không được tới bệnh viện thăm nàng.
o0o
Ngày 22 tháng Năm.
Thơ của Martins cho hay: cuộc giải phẫu thành công mỹ măn.
Lạy Chúa, con tạ ơn Ngài.
o0o
Ngày 24 tháng Năm.
Tôi vô cùng ngượng ngùng và bất an nghĩ đến chuyện tŕnh diện
với người đă yêu tôi cho đến bây giờ mà chưa thấy mặt tôi. Không
biết nàng có nhận ra tôi không. Lần đầu tiên trên đời, tôi lo
lắng ngắm ḿnh trong gương. Tôi sẽ như thế nào nếu thị giác nàng
không độ lượng, không yêu đương như trái tim nàng. Chúa ơi, con
cần t́nh thương của nàng để con yêu kính Chúa.
o0o
Ngày 27 tháng Năm.
Mấy hôm nay giáo khu bất ngờ lắm việc phải giải quyết, giúp tôi
khuây khỏa ít nhiều. Tôi mừng rỡ t́m được nhiều chuyện bận rộn
để khỏi nghĩ đến nàng. Nhưng h́nh ảnh nàng vẫn luôn luôn theo
tôi ám ảnh.
Ngày mai nàng sẽ trở về. Suốt tuần qua, Amélie biểu lộ những
diện tốt lành nhất của ḿnh và để tâm giúp tôi quên kẻ vắng mặt,
bây giờ cùng đám trẻ sửa soạn đón nàng về.
o0o
Ngày 28 tháng Năm.
Thằng Gaspard và con Charlotte đă hái tất cả hoa dại ngoài rừng
và trong nội cỏ. Vú già Rosalie làm một chiếc bánh khổng lồ, và
Sarah cắt những mẩu giấy vàng để trang hoàng bánh. Trưa nay cả
nhà trông ngóng nàng về.
Tôi lấy giấy bút ra viết để bận rộn trí óc trong những phút đợi
chờ. Đồng hồ chỉ mười một giờ. Lúc lúc, tôi lại nh́n ra đường
t́m bóng cỗ xe của bác sĩ Martins. Tôi quyết định không chạy ra
tận xe đón nàng. Tôi không muốn sự đón mừng của tôi có tính cách
riêng tư trước mặt Amélie. Tim tôi nhói lên… A! Họ đă về.
Chiều ngày 28.
Tôi rơi vào cái đêm tối hăi hùng nào đây. Lạy Chúa, hăy thương
xót con, con xin van Chúa. Con xin hứa sẽ không thương yêu nàng
nữa. Nhưng lạy Chúa, con van xin Ngài đừng để cho nàng chết!
Bây giờ tôi mới biết tại sao tôi lo sợ bấy lâu. Nàng toan làm
chuyện ǵ đây? Khổ quá, nàng đă toan làm chuyện ǵ? Amélie và
Sarah cho tôi hay là đă tiễn nàng về tới cổng biệt thự La
Grange, tận tay giao nàng lại cho cô Louise. Tức là nàng vào nhà
rồi lại trở ra… Chuyện ǵ đă xẩy ra? Tôi cố gắng sắp xếp đầu óc
cho thứ tự. Nhưng tôi không thể nào hiểu nổi, sự việc đầu đuôi
trái ngược. Đầu óc tôi rối mù… Bác làm vườn của cô Louise mang
nàng về nhà bất tỉnh. Bác kể lại thấy nàng đi dọc theo bờ sông,
qua cầu, rồi cúi xuống, rồi mất dạng… nhưng không nghĩ nàng ngă
xuống nước, nên bác đă không chạy tới cứu. Lát sau bác t́m thấy
nàng trôi về chỗ gần đập nước. Lúc tôi tới th́ nàng đang mê man;
hay mới mê lại, v́ nghe nói nàng đă hồi tỉnh một lát nhờ cứu
cấp. May sao, anh Martins vẫn chưa rời làng; anh thấy khó hiểu
v́ cơn mê kéo dài quá lâu; anh gạn hỏi nhưng nàng không trả lời;
nàng như không nghe mà cũng không thấy ǵ, hay nghe thấy nhưng
nhất định không hé răng. Nàng vẫn thở một cách mệt nhọc nặng nề,
và anh nghĩ nàng bị sưng phổi; anh đặt chén hút máu tụ, và cho
chườm hột cải, rồi hẹn ngày mai trở lại. Chỉ tại lúc cấp cứu,
mọi người vô ư, để nàng mặc quần áo lạnh quá lâu trong khi t́m
cách làm nàng hồi tỉnh. Nước sông băng giá, cô Louise là người
độc nhất được nói chuyện với nàng vài câu cho hay là nàng định
hái mấy bông lưu-ly-thảo mọc ven sông, và c̣n vụng về khi ước
lượng khoảng cách, hay tưởng lầm đám hoa nổi là đất liền, nàng
đă xảy chân… Ước ǵ tôi tin được giải thích này. Nếu quả thật là
một tai nạn, th́ ḷng tôi nhẹ nhơm biết bao. Nghĩ lại, tôi nhớ
suốt bữa ăn trưa nay, mọi chuyện kể như vui vẻ, chỉ có nụ cười
bất thường như không rời môi nàng làm tôi lo âu; nụ cười tôi
chưa thấy nơi nàng, cũng như ánh mắt mới của nàng; một nụ cười
buồn như nước mắt chảy xuống má nàng, làm tôi khó chịu với sự
vui nhộn xô bồ của cả nhà. Nàng không dự phần vào cuộc vui. Nàng
như khám phá ra chuyện ǵ, nếu chỉ có riêng tôi chắc nàng đă
chia sẻ. Nàng gần như không nói ǵ, nhưng không ai để ư, v́ tính
nàng vốn trầm tĩnh, mọi người xung quanh càng vui nhộn bao nhiêu
th́ nàng lại càng yên lặng bấy nhiêu.
Lạy Chúa, con van xin Ngài, cho con được nói chuyện với nàng.
Con phải biết rơ đầu đuôi, nếu không, làm sao con sống nổi… Tuy
nhiên, nàng đă quyết từ trần, phải chăng là nàng đă biết? Em
yêu, em biết chuyện ǵ mà hăi hùng đến thế? Tôi đă giấu em
chuyện kinh hoàng ǵ mà bây giờ em mới thấy?
Tôi ngồi đầu giường nàng, suốt hai giờ đồng hồ, đăm đăm nh́n
vừng trán xinh đẹp, đôi má xanh xao, và đôi mi thanh tú úp xuống
một trời buồn thảm, và mái tóc ướt nước sông ḷa x̣a như rong
rêu rũ trên mặt gối… Và lắng nghe nhịp nàng thở, nặng nhọc, khi
ngắn khi dài…
o0o
Ngày 29 tháng Năm.
Tôi sắp qua bên biệt thự La Grange, th́ cô Louise cho người tới
t́m. Sau một đêm khá yên tĩnh, Gertrude đă tỉnh lại.
Nàng cười với tôi khi tôi bước vào pḥng. Tôi không dám hỏi
chuyện, và nàng cũng như e sợ những câu hỏi của tôi v́ nàng nói
trước:
“Mục sư gọi những bông hoa màu xanh da trời mọc ngoài sông mà
con định hái là hoa ǵ nhỉ? Mục sư khéo tay hơn con, Mục sư đi
hái cho con một bó đi. Con muốn bày hoa ở chỗ này này, gần
giường đó…”
Nàng vui gượng làm tôi xót xa. Có lẽ cũng thấy như vậy, nàng lấy
giọng nghiêm trang nói với tôi:
“Sáng nay con không nói chuyện với Mục sư được, v́ con mệt quá.
Mục sư đi hái hoa cho con đi. Đừng đi lâu nhé.”
Độ một giờ sau tôi mang hoa về. Cô Louise cho hay là Gertrude đă
ngủ lại và đến chiều mới tiếp tôi được.
Chiều tôi lại đến gặp nàng. Nàng ngồi tựa lưng lên chồng gối
cao. Tóc nàng đă bím lại gọn ghẽ, và phía trước cài mấy bông
lưu-ly-thảo tôi hái lúc sáng.
Rơ ràng là nàng vẫn sốt và hơi thở vẫn khó khăn. Tôi đưa tay cho
nàng. Nàng nắm lấy tay tôi, bàn tay nàng hừng hực như lửa. Tôi
đứng cạnh nàng như vậy giây lâu. Gertrude lên tiếng:
“Con phải thú tội với Mục sư, v́ con sợ không qua khỏi chiều
nay. Ban sáng, con đă nói dối Mục sư… Không phải con hái hoa,
rồi vô ư lâm nạn… Mục sư có tha lỗi cho con, nếu con nói với Mục
sư là con định tự vận?”
Tôi quỳ xuống bên giường, tay tôi vẫn giữ bàn tay nàng bé bỏng
của nàng, mặt úp xuống đệm để giấu cơn khóc. Nhưng nàng gỡ tay
ra để vuốt trán tôi.
Nàng dịu dàng nói:
“Mục sư thấy như vậy tội lỗi lắm sao?”
Thấy tôi không trả lời, nàng bỗng nói tiếp:
“Anh! Anh cũng phải thấy rằng em chiếm một chỗ quá lớn trong tim
anh, cũng như trong cuộc đời anh. Chỗ em chiếm là chỗ của một
người đàn bà khác, và người đó vô cùng sầu muộn. Tội lỗi của em
là đă không linh cảm được điều này từ trước. Hay đúng ra - v́
thực ra em đă biết trước- tội của em là đă biết vậy mà vẫn để
cho anh yêu em. Nhưng bỗng thấy mặt vợ anh, thấy biết bao sầu
muộn trên gương mặt ấy, em không thể nào chịu nổi là chừng ấy
sầu muộn là do em gây ra… Không, em không trách ǵ anh, nhưng để
cho em đi, và anh hăy trả lại cho vợ anh niềm hạnh phúc cũ của
người.”
Nàng không c̣n vuốt ve trán tôi nữa. Tôi cầm lấy bàn tay nàng
hôn như mê dại, những nụ hôn đẫm nước mắt. Nàng bỗng phũ phàng
rút tay lại, toàn thân giao động với niềm căm phẫn bất ngờ:
“Không, chuyện này không phải là chuyện em muốn nói với anh
chiều nay.”
Và nàng lặp lại, vầng trán lấp xấp mồ hôi:
“Không, không phải chuyện này.”
Và nàng nhắm mắt giây lâu như cố tập trung tư tưởng, như gắng
t́m lại t́nh trạng mù ḷa trước kia. Rồi nàng nói, mới đầu giọng
lê thê buồn bă, rồi nàng từ từ mở mắt, tiếng nói lớn dần, sau
cùng như la hét:
“Khi anh cho lại em thị giác, em mở mắt thấy một thế giới đẹp
hơn cả mơ ước của em; đúng, em không ngờ ngày lại trong, không
khí lại sáng, và trời lại bao la như vậy. Nhưng em cũng không
ngờ vừng trán con người lại có thể nặng nề đến thế; bước chân
vào nhà anh, anh có biết em thấy ǵ trước không… Chao ôi! Nhưng
dù sao em cũng phải nói với anh: cái đầu tiên em thấy là lỗi lầm
của chúng ḿnh, là tội lỗi của chúng ḿnh. Không, anh đừng căi
em. Anh có nhớ lời Chúa dạy không? ‘Nếu con mù ḷa, con không có
tội’. Nhưng em không c̣n mù ḷa nữa… Mục sư đứng dậy đi. Ngồi
đây này. Gắng nghe em mà đừng ngắt lời. Thời gian ở bệnh viện,
em đă đọc, hay đúng ra, đă được đọc cho nghe những đoạn Phúc âm
mà em chưa từng được biết, mà Mục sư cũng chưa bao giờ dạy cho
em. Có câu kinh của thánh Paul mà em đă nhẩm đi nhẩm lại suốt
một ngày, là ‘Xưa tôi vô luật nên tôi đă sống. Nhưng nay Điều
Răn đă tới, tội lỗi hồi sinh, và tôi phải từ giă cơi trần’.”
Nàng nói trong say mê tột độ, lớn tiếng gần như la hét làm
tôi ngượng ngùng, sợ ai bên ngoài nghe thấy. Rồi nàng nhắm mắt,
lẩm nhẩm một ḿnh:
“Tội lỗi hồi sinh, và tôi từ giă cơi trần.”
Tôi rùng ḿnh, trái tim thắt lại trong băng giá lo âu.
“Ai đọc cho em những câu kinh đó?”
Nàng mở mắt t́m mắt tôi, và nh́n tôi không chớp, nàng nói:
“Anh Jacques. Mục sư có biết là anh ấy cải đạo rồi không?”
Thật là quá sức tưởng tượng. Tôi muốn van xin nàng đừng nói nữa,
nhưng nàng đă tiếp tục:
“Mục sư, em làm Mục sư khổ sở quá nhiều. Nhưng chúng ḿnh không
nên giấu nhau ǵ nữa. Khi thấy Jacques, em chợt hiểu Mục sư
không phải là người em yêu. Mà là Jacques. Jacques có đúng khuôn
mặt của Mục sư… Em muốn nói là khuôn mặt của Mục sư mà em đă
h́nh dung… Chao ôi! Tại sao Mục sư lại xui em xua đuổi Jacques?
Lẽ ra em đă có thể lấy Jacques làm chồng…”
Tôi nói trong tuyệt vọng:
“Nhưng Gertrude, bây giờ đâu đă muộn…”
Nàng như hét lên:
“Anh ấy đă vào chủng viện rồi!”
Rồi nàng khóc nức nở, đôi bờ vai rung động, thổn thức. Nàng rên
rỉ:
“Chao ôi! Ước ǵ bây giờ tôi được Jacques làm phép thánh cho
tôi. Mục sư thấy không? Tôi chỉ c̣n một con đường, là chết. Tôi
khát quá. Mục sư cho gọi ai vào đi, tôi van Mục sư. Tôi khó thở
quá. Để cho tôi nghỉ một ḿnh. Mục sư đi ra đi. A! Vậy mà đă
tưởng nói với Mục sư, tôi nhẹ được nỗi ḷng. Mục sư đi ra đi.
Chúng ḿnh đừng thấy nhau nữa. Thấy Mục sư tôi chịu hết nổi
rồi.”
Tôi rời pḥng nàng. Tôi gọi cô Louise để thay tôi canh bệnh. Sự
giao động tột độ của nàng làm tôi vô cùng lo âu. Tôi biết sự
hiện diện của tôi chỉ làm bệnh t́nh nàng thêm trầm trọng. Tôi
năn nỉ mọi người gọi tôi, nếu bệnh nàng trở nặng.
o0o
Ngày 30 tháng Năm.
Than ôi từ đấy về sau, tôi chỉ được thấy nàng lúc nàng ngủ. Nàng
mất sáng nay, lúc sớm tinh sương, sau một đêm mê sảng nặng nề.
Nàng mất được vài giờ th́ Jacques về tới nhà. Cô Louise theo lời
thỉnh cầu cuối cùng của Gertrude, đă đánh điện cho con tôi báo
tin. Hắn nặng lời trách móc tôi đă không kịp thời gọi linh mục
làm lễ. Nhưng tôi đâu có ngờ nàng cũng đă cải đạo trong lúc
dưỡng bệnh tại Lausanne, tất nhiên là do hắn xui giục. Hắn cho
tôi hay cùng một lúc hắn và Gertrude đă bỏ đạo cũ. Thế là cả hai
đă bỏ tôi; tuồng như bị tôi chia rẽ trong cuộc sống trần thế,
chúng đă quyết trốn tôi, bỏ tôi, để t́m nhau xum họp bên Chúa.
Nhưng tôi vẫn nghĩ Jacques cải đạo v́ trí óc hơn v́ con tim. Hắn
nói với tôi:
“Thưa Ba. Làm con mà buộc tội cha là điều không phải. Nhưng
chính nhờ Ba lầm đường mà con t́m được chính đạo.”
Jacques đi rồi, tôi quỳ xuống bên vợ, xin nàng cầu nguyện cho
tôi, v́ tôi cần được cứu giúp. Đơn giản, nàng đọc “Lạy Cha… “,
nhưng để giữa hai đoạn kinh những đoạn yên lặng dài cho những
cầu khẩn van nài chúng tôi dâng lên Chúa.
Tôi muốn khóc, nhưng tim tôi khô cằn c̣n hơn sa mạc.
Hết
|