Những h́nh ảnh đặc sắc về nữ “chiêu đăi viên hàng không”
của Air Vietnam trước 1975
 
Vào những năm trước 1975, miền Nam có hăng hàng không quốc gia mang tên Air Vietnam, được thành lập từ năm 1951 dưới thời Quốc gia Việt Nam của quốc trưởng Bảo Đại. Đây là hăng hàng không đầu tiên của người Việt Nam vận hành và quản lư. “Air Vietnam” tiếp tục c̣n được sử dụng trong suốt 20 năm chính quyền VNCH, măi đến tận năm 1993 th́ mới được đổi thành Vietnam Airline như hiện nay.







Nhiệm vụ chủ yếu của những người “Chiêu đăi viên Hàng không” là hướng dẫn và theo dơi công tác an toàn cho hành khách trong suốt chuyến bay. Ngoài ra họ c̣n phục vụ các dịch vụ khác như: ăn uống, báo chí và hỗ trợ các hành khách cần chăm sóc đặc biệt.

Trước năm 1975, những người làm công việc đó trên máy bay không gọi là “tiếp viên hàng không”, mà thường được biết đến với cái tên “Chiêu đăi viên hàng không”.

Thời bấy giờ, hăng Hàng không có hai bộ phận riêng biệt là: “Chiêu đăi viên hàng không” (Flight Attendant) và “Tiếp viên hàng không” (Airline Receptionist). Nếu được dịch sát nghĩa sẽ là “Người phục vụ trên máy bay” và “Nhân viên tiếp tân của hăng hàng không”.

Như vậy th́ “Chiêu đăi viên” là người trực tiếp phục vụ hành khách trên máy bay trong suốt chuyến bay, đúng với nghĩa tiếng Anh là “Attendant”. C̣n “Tiếp viên hàng không” là người đón tiếp khách tại sân bay, hoặc đứng ở quầy bán vé, hướng dẫn hành khách, là người đầu tiên mà hành khách gặp khi đến sân bay, theo đúng nghĩa là “tiếp tân” (Receptionist).

Tuy nhiên dù là “Chiêu đăi viên” hay là “Tiếp viên” th́ hăng Hàng không cũng tuyển lựa những người trẻ đẹp, có ngoại h́nh và duyên dáng, đồng thời cũng phải là người có tŕnh độ học thức, phải biết ít nhất hai ngoại ngữ (thường là Anh-Pháp), phải có thái độ tiếp đăi ân cần, lễ phép và nhã nhặn với mọi người,…

Sở dĩ tiêu chuẩn tuyển chọn người khắc khe như thế là v́ những người làm ở bộ phận này được xem là “bộ mặt” của hăng Hàng không, là nơi cung cấp dịch vụ vốn chỉ dành cho giới trung lưu và thượng lưu ngày xưa.
“Chiêu đăi viên” là những người tiếp xúc với hành khách nhiều nhất, họ luôn phải kịp thời đáp ứng mọi yêu cầu của khách, làm cho hành khách cảm thấy hài ḷng nhất có thể trên chuyến bay.

Những “chiêu đăi viên” của hăng hàng không Air Vietnam thời bấy giờ có đồng phục áo dài màu xanh lơ, đây được cho là biểu tượng của bầu trời, trên cổ áo c̣n có đính huy hiệu con rồng – là biểu tượng của Air Vietnam.

Nhiều người suy nghĩ rằng tên gọi “chiêu đăi viên” chỉ có ở miền Nam, nhưng thật ra ở miền Bắc cũng đă có hàng không dân dụng từ thập niên 1950 và cũng gọi những người phục vụ hành khách trên máy bay là “chiêu đăi viên”. Điều này được nhắc đến trong cuốn sách biên khảo “Hàng không dân dụng Việt Nam – Những chặng đường lịch sử”. Trong đó có nhắc đến 2 nữ “chiêu đăi viên hàng không” nổi tiếng thập niên 60 ở miền Bắc là Phi Phượng và Lê Kim Thu.

“Chiêu đăi viên” nổi tiếng nhất của Air VietNam thập niên 1960 là cô Đặng Tuyết Mai, tuy nhiên cô chỉ làm công việc này trong một khoảng thời gian ngắn v́ sau đó cơ duyên cô gặp được ông Nguyễn Cao Kỳ và rồi trở thành “đệ nhị phu nhân” của VNCH.


Đặng Tuyết Mai

Năm 1970, đạo diễn Lê Mộng Hoàng và Mỹ Vân Film đă hợp tác với Đài Loan thực hiện cuốn phim mang tên “Từ Sài G̣n Đến Điện Biên Phủ”, trong đó nữ minh tinh Kiều Chinh vào vai một cô “chiêu đăi viên hàng không” với trang phục nổi bật, làm đẹp thêm h́nh ảnh của hăng hàng không Air Vietnam ngày ấy.


 

Những h́nh ảnh khác về “chiêu đăi viên hàng không” của Air Vietnam:






















Tản mạn về Sài G̣n – Nghiền ngẫm về những điều đă xa

Nếu được hỏi, bạn nhớ ǵ nhất ở Sài G̣n, th́ câu trả lời sẽ là ǵ? Với tôi, mỗi khi có người hỏi nhớ ǵ ở Sài G̣n, tôi sẽ bảo rằng nhớ những cơn mưa chóng vánh của Sài Thành. Mưa chợt đến rồi chợt đi, không dai dẳng, nhưng cũng chẳng có bất kỳ dấu hiệu nào báo trước. Những trong mắt nhiều người th́ họ vẫn thích cái nắng ấm áp của Sài G̣n hơn, điển h́nh là nhà thơ Nguyên Sa – Ông thể hiện t́nh yêu nồng nhiệt của ḿnh với cái nắng của Sài Thành như này: “Nắng Sài G̣n anh đi mà chợt mát…”. Những riêng bản thân tôi, dân Sài G̣n chính là “con nai vàng” ngơ ngác, c̣n Sài G̣n là nàng tiểu thư đỏng đảnh “lúc nắng lúc mưa”, tâm tính thay đổi thất thường, khiến chẳng ai lường trước được – Nhưng cũng rất dễ thương và dễ mến.

Em c̣n nhớ hay em đă quên
Nhớ Sài G̣n mỗi chiều gặp gỡ
Nhớ món ăn quen nhớ ly chè thơm

Nhớ bạn bè chào nhau quen tiếng
Phố em qua gạch ngói quen tên…”

(Bài hát “Em c̣n nhớ hay em đă quên” của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn)

Sài G̣n xưa là một thành phố mang đầy sự khập khiễng; một bên th́ lộng lẫy với những ṭa biệt thự “kín cổng cao tường” – bên trong là những cậu ấm cô chiêu, học trường Tây, du học nước ngoài; một bên là những khu ổ chuột nghèo, những mái nhà san sát nhau chênh vênh trên ḍng kinh nước đen đầy hung hiểm – có những thằng bé cô nhóc nước da đen nhẻm, ḿnh th́ trần trụi, suốt ngày phơi nắng phơi sương ngoài mưa ngoài gió để nhặt nhạnh từng đồng bạc lẻ, nóng nực th́ cứ lột sạch rồi nhảy “ùm” xuống sông tắm như chốn không người. Sài G̣n là như vậy đó! Xen lẫn giữa những cái văn minh và tri thức chính là tiếng chửi nhau chửi thề nhiều như hát, bên cạnh không gian im ắng của “nỗi buồn không tên” chính là sự ồn ào và nhộn nhịp của xe cộ tấp nập, người người hối hả v́ cuộc sống mưu sinh. 

Vùng ngoại ô Sài G̣n – Mảnh đất Gia Định ngày xưaDù như thế th́ Sài G̣n vẫn vô cùng đáng yêu! Cuộc sống sẽ có những lúc khó khăn, người Sài G̣n lúc nào cũng tất bật với công việc như sợ đánh mất một nhịp thời gian nào đó, nhưng họ lại vô cùng phóng khoáng và hiếu khách. Người Sài G̣n không hoa ḥe và cũng chẳng cần những thứ triết lư sâu xa, họ vẫn cứ đơn giản và là chính ḿnh, đối xử chân thành với người khác. 

Sài G̣n là ǵ nhỉ? Là những buổi trưa hè hiu hiu gió thoảng với những đợt nắng ấm, là những cụm mây xanh lơ nhè nhẹ trôi êm trên bầu trời, là những chiều tắt nắng trên các ṭa cao ốc hay bên nhánh sông buồn. Sài G̣n đôi khi lại là những đêm lấp lánh khi ánh đèn đường so kè sự rực rỡ với các v́ sao lung linh trên bầu trời, là những đêm nằm nghe tiếng mưa rơi tí tách bên mái hiên nhà như từng giọt buồn lảnh lót, có khi lại cô quạnh và buồn tênh trong đêm dài dai dẳng. 

Yêu làm sao tiếng rao hàng đường phố Sài Thành, những gánh hàng rong dưới sương đêm mang theo sự âm vang nao ḷng. Sẽ có lúc, tiếng rao ấy vang lên những người nghe chẳng thể nào hiểu được ư nghĩa – nhưng cứ như bị thôi miên, nghe măi nghe măi thành quen lúc nào chẳng hay, cái giai điệu ấy cứ lặp đi lặp lại trong miền kư ức đến tận khi bản thân biết được họ bán cái ǵ. Có người bán hàng rong đêm th́ làm sao thiếu được người “ăn hàng’ đêm, cái thói quen này không biết được tập từ khi nào, nhưng lâu dần nó đă trở thành một nét văn hóa của người Sài Thành. Những gánh hàng khuya được mang đến tận cửa, những chiếc bánh gị hay những tô hủ tiếu gơ vẫn c̣n nghi ngút khói….những chén chè đậu trắng với đầy ắp nước cốt dừa béo ngậy, chén tàu hủ nóng ấm ḷng lúc đêm hôm….H́nh như, bây giờ, Sài G̣n chẳng c̣n mấy người bán bánh bao chỉ, kẹo kéo, sương sa hạt lựu, mía ghim hay mía hấp nữa,….đó đều là những “đặc sản” mà người người yêu thích thời xưa, giờ chỉ c̣n là khoảng kư ức để hoài niệm mà thôi!



Gánh hàng rong

“…..Em c̣n nhớ hay em đă quên
Nhớ Sài G̣n mưa rồi chợt nắng
Nhớ phố xưa quen biết tên bàn chân

Nhớ ngựa thồ ngoại ô xa vắng
Nối xôn xao hàng quán đêm đêm…”
….

“….Một ngơ vắng xôn xao
Nằm trong ḷng phố lớn……”


(Bài hát “Ngơ vắng không tên” của nhạc sĩ Trần Quang Huy)

Sài G̣n trong kư ức của các bạn là ǵ? Phải chăng là những chú dế “hộp quẹt” xách râu lên quay, thổi phù phù rồi đá “bắt xác”. Có những ngày hè, ngoài những tṛ chọi đáo, chơi cù,…th́ bọn trẻ c̣n rủ rê nhau lang thang khắp đường phố chỉ để lượm nhặt những vỏ bao thuốc lá về chơi. Mỗi loại bao thuốc sẽ mang một mệnh giá khác nhau, loại nào càng hiếm th́ đồng nghĩa mệnh giá càng cao như thuốc lá Camel có h́nh con lạc đà, thuốc Salem,…loại mệnh giá thấp như Ruby, Cotab,…Đó là c̣n chưa kể đến tṛ “tạt h́nh”, “tạt lon”,…Mùa nào th́ có tṛ chơi đó, bọn nhóc thời đấy có biết bao nhiêu là tṛ nghịch phá, biết bao nhiêu thứ để chơi – toàn là những tṛ chơi của đám trẻ con nhà nghèo.

Rồi thời gian cứ lẳng lặng mà nhẹ trôi, đám trẻ ngày nào cũng dần giă từ thế giới mộng mơ để bước vào chốn mưu sinh của người lớn. Không c̣n những bâng khuâng hay ngượng ngùng, chỉ có sự chững chạc và trưởng thành được mài giũa từng ngày. Thuở ấy, Sài G̣n là “những lần hái hoa phượng ép vào vở thành cánh bướm”, “là buổi chiều tan trường theo bước chân nhau dạo quanh”, là: 

“Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc
Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường
Sợ thư t́nh không đủ nghĩa yêu thương
Tôi pha mực cho vừa màu nhớ thương…” 


(Trích trong bài thơ t́nh “Tuổi mười ba” của Nguyên Sa và Trần Bích Lan)

Sài G̣n hiền lành và đáng yêu biết nhường nào! Người Sài G̣n thích ngắn gọn nhưng lại dễ hiểu, chứ không dài ḍng dai dẳng và quanh co, luồn lách. Sài G̣n có góc sáng th́ cũng sẽ có góc tối, có những giọt nước mắt âm thầm rơi rơi một cách lặng lẽ mà chỉ riêng người Sài Thành mới cảm nhận được. Sài G̣n khi về đêm, bên trong những nhà hàng sang trọng, có những bữa tiệc lộng lẫy ánh đèn, người người vui cười rộn ră, người xài tiền chẳng cần đếm. Thế nhưng, bên cạnh đấy vẫn có một cuộc sống hoàn toàn khác, một thế giới hoàn toàn đối lập – có những mảnh đời cơ cực đang vật vă kiếm sống, có những người lao động xóm nhỏ quanh năm chưa có ngày sung sướng, “cơm áo gạo tiền” luôn là điều mà họ quan tâm hàng giờ, hàng phút…


Cảnh những khu chợ nhỏ mọc lên trên khuôn viên ngôi nhà thờ

Xứ sở Sài G̣n lạ lùng lắm, lạ như cái nắng cái gió phương Nam vậy đó, cuộc sống tuy có khó khăn và vật lộn để mưu sinh nhưng lại rất hào sảng và phóng khoáng, đôi lúc lại chân t́nh và sẵn sàng chia sẻ cùng những người cơ nhỡ. Bởi người ta mới nói, người Sài G̣n có thể nghèo tiền nghèo bạc, nhưng chẳng bao giờ nghèo t́nh nghèo nghĩa – Không chỉ là người giàu có, kể cả những người nghèo khó lo lắng chạy từng miếng ăn, chắt chiu từng đồng từng cắt th́ vẫn sẵn sàng chia sớt với người khó hơn ḿnh….Một cậu bé bán vé số, một chú lái ba gác, một chú chạy xe ôm hay một cô bán hàng rong….đều mỉm cười “nhường cơm sẻ áo” cho những người “đói” hơn ḿnh. Dù nghèo khó, dù lo toan cho miếng ăn hàng ngày th́ họ vẫn sẵn sàng quyên góp chút ǵ đó cho đồng bào các vùng thiên tai. Làm sao mà đong đếm hết được t́nh nghĩa của người Sài G̣n! 

Sài G̣n đôi lúc cũng lăng mạn lắm – Không gian êm đềm và thơ mộng với những bông hoa, cành cây, ngọn cỏ…đâu đó vẫn sẽ có một khoảnh khắc ngọt ngào xuất hiện giữa cuộc sống hối hả và đầy bụi bặm. Âm thanh lay đưa của cây cỏ ḥa như đang th́ thầm về những vui buồn, trăn trở trong cuộc sống,…Nhắc đến Sài G̣n, làm sao quên những h́nh ảnh của những quán ăn, quán cà phê….đây đều là cái hồn của người Sài G̣n, là hương sắc đặc trưng làm nên nét đặc thù của Sài G̣n, là nỗi nhớ nhung và lưu luyến nhất cho những ai đă một lần ghé thăm Sài Thành.

Có một con đường Sài G̣n được người người yêu thích – đường Duy Tân, bởi hai hàng cây xanh rợp bóng cho những đôi nhân t́nh thong thả đi bên nhau, họ thả hồn mộng mơ vào không gian, lắng nghe tiếng lá đung đưa xào xạc để chợt thấy ḷng bâng khuâng. C̣n con đường Tú Xương ôm trong ḿnh hai hàng cây cao vút, nhưng cứ măi lặng thinh mang theo dấu ấn người nhân t́nh, những chiếc lá vàng vào mùa thay lá cứ bay bay dập d́u trong gió, thi thoảng lại rơi trên tà áo dài trắng của những nữ sinh….Sài G̣n bây giờ làm ǵ t́m thấy được cái gọi là “con đường t́nh ta đi” như trong sáng tác của nhạc sĩ Phạm Duy….


B́a trái là hai trụ cổng của Tổng Hội Sinh Viên Saigon, số 4 đường Duy Tân

“…..Sài G̣n ơi! Thôi hết rồi những ngày hát nhớ nhau
Như trường xưa mất tuổi thiên thần
Hy vọng xa hay mộng ước gần
Đă ngậm sầu ngang môi lắng im…”

(Bài hát “Nước mắt cho Sài G̣n” của nhạc sĩ Nguyễn Đ́nh Toàn)


Nhắc nhẹ một xíu về con gái Sài G̣n – là những cô nàng có khuôn mặt thanh thoát, đôi mắt nho nhỏ có phần tinh ranh, cái miệng nhanh lẹ lại lém lỉnh, khác xa những cô gái Hà Nội sắc sảo, hay con gái Huế trầm buồn….Nước da con gái Sài Thành không trắng bóc như gái Hà Nội, cũng chẳng hồng hào như cô nàng Đà Lạt hay mặn mà như những em Tây “tóc vàng, mắt xanh” mà mang theo chút ǵ đó rất khác lạ, khiến người ta nhớ măi chẳng quên. Tính t́nh của những cô gái Sài G̣n hả? Nói sao ta? Đỏng đảnh lại thêm chút kiêu kỳ nhưng mau quên, mau giận mau hơn nhưng cũng chẳng nhớ được lâu, lúc nắng lúc mưa vô cùng thất thường, chẳng giống những cô nàng Hà Nội âm ỉ và dai dẳng. 

Không khéo ăn nói như con gái miền Bắc, không sớm hôm tần tảo như cô nàng nông thôn, chẳng kín đáo hay e ấp như con gái Huế…con gái Sài G̣n giản dị lắm, tự nhiên trong tính cách, chân thành trong cách đối nhân xử thế và cởi mở trong giao tiếp. Có lẽ, chính những điều này đă tạo nên một cảm giác thoải mái cho người đối diện, sự dễ chịu khi tiếp xúc. Lối sống đơn giản, mộc mạc cộng với giọng nói khó lẫn càng làm cho người khác dễ gần hơn. 

Chẳng hiểu sao, giữa ḍng người đông đúc, xe cộ cứ tấp nập ngược xuôi cũng không thể nào che giấu đi nét đẹp lạ lùng của người con gái Sài Thành – Dáng vẻ thời trang với nhiều trang sức, quần áo lụa là chẳng đâu sánh kịp. Se sua là thế nhưng lại không khiến người đối diện khó chịu, họ chẳng mang theo chút nào gọi là ‘lố lăng” mà chỉ nhiều hơn phần thướt tha và xinh đẹp.


Một nhóm các cô gái đi bộ đến một buổi tŕnh diễn nhạc rock
được tổ chức tại khuôn viên Sở thú Sài G̣n

Đỏng đảnh hay kiêu kỳ ra sao th́ chưa biết chắc được, nhưng cái điệu đà và ơng ẹo th́ đích thị là con gái Sài Thành. Người ta nói, đó chính là cái duyên ngầm của người con gái đất Gia Định xưa, chỉ những ai thấu hiểu được mới biết yêu thương và nhớ măi không quên. 

“…..Sài G̣n ơi! Đâu những ngày mưa mùa khoác áo đi
Tay cầm tay nói nhỏ câu ǵ
Những quầy hoa quán nhạc đêm về
Ta hỏi thầm em có nhớ không!…”

(Bài hát “Sài G̣n niềm nhớ không tên” của nhạc sĩ Nguyễn Đ́nh Toàn)