LÊ VĂN LÂN
							
								
								
 
 
							
								Người yêu thơ Việt Nam nghe nói đến loài hoa 
								trông “dáng như tim vỡ” bèn nghĩ ngay đến một 
								loài hoa có tên rất Tây phương là hoa ti-gôn. 
								Bởi v́ tên hoa ti-gôn đă dính liền với một nhà 
								thơ nữ mà tông tích cực kỳ bí mật dưới ẩn danh 
								TTKH. Cách đây hơn nửa thế kỷ, TTKH đă đem tả 
								hoa này vào trong những bài thơ nổi tiếng tha 
								thiết của ḿnh như Bài Thơ Thứ Nhất, Hai Sắc Hoa 
								Ti Gôn, Bài Thơ Cuối Cùng. Dư luận văn thi đàn 
								Việt Nam bỗng sôi nổi t́m hiểu TTKH là ai? Nhưng 
								rồi tiếng thơ TTKH bỗng im bặt...Bí mật vẫn là 
								bí mật bao trùm trong sự khao khát ngưỡng mộ của 
								kẻ yêu thơ. 
								Lời thơ vụng dại da diết của TTKH nghe ra giọng 
								của một thiếu nữ dậy th́, lần đầu mới biết yêu 
								nên rất chân thành, nóng hổi thốt tự đáy tim. Nó 
								khiến biết bao nhiêu thanh thiếu niên nam nữ 
								Việt Nam yêu thơ trong nhiều thế hệ, tiền chiến 
								cũng như hậu chiến, trân trọng ghi chép và trao 
								đổi lẫn nhau. Ai cũng tưởng tượng rằng ḿnh là 
								TTKH hay người yêu của nàng trong một mối t́nh 
								tuyệt vọng Roméo-Juliet. Hiện tượng này khác nào 
								thuở phôi thai của phong trào ham mê đọc tiểu 
								thuyết đầu thế kỷ, những thế hệ cha anh của họ 
								say mê đọc tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc 
								Phách và thơ của nữ sĩ Tương Phố vậy. 
							
								
								NHƯNG TTKH LÀ AI? 
							
								
 
							
								Tông tích của nàng chưa ai rơ, mặc dù mới cách 
								đây một vài năm, thiên hạ muốn cố t́nh hâm nóng 
								lại dư luận bằng cách phanh phui trên mặt báo 
								chí, cho rằng để giải quyết một bí ẩn của một hồ 
								sơ văn học. 
								Theo tôi, dù sự thực có chứng minh hùng hồn thế 
								nào đi nữa mà đi t́m phỏng vấn thiếu điều căn 
								vặn một nữ sĩ hiện c̣n sống có thế giá, thanh 
								danh bị nghi là TTKH phải thú nhận ḿnh ngày xưa 
								dù đă thành gia thất vẫn nuôi trong tâm tưởng 
								một mối t́nh dù cao thượng trong sạch tha thiết 
								lăng mạn, th́ cũng như: Là giết đời nhau đấy 
								biết không?.Hơn nữa, như lời thơ xưa nàng thống 
								thiết viết trong Bài Thơ Cuối Cùng: 
								Nếu không im được th́ 
								tôi chết 
								Đêm hỡi! Làm sao lạnh thế này?
								Người ta quên rằng TTKH vốn là một nhân vật khuê 
								nữ dù lăng mạn nhưng tâm lư vẫn bị câu thúc 
								trong khuôn phép lễ giáo câu nệ, nghiêm khắc 
								cách đây hơn nửa thế kỷ ở Việt Nam. Mọi sự đàm 
								tiếu của dư luận là một bản án tử h́nh cho danh 
								giá gia đ́nh. Do đó, chúng ta hăy không những 
								tôn trọng niềm im lặng bí ẩn văn học này, lại 
								trân quí nó và đem “trước bạ” nó vào văn học sử 
								Việt Nam. T́nh trạng cũng như văn học Pháp đă 
								từng trân quí bài thơ ngắn tựa đề Un Secret chứa 
								vỏn vẹn một gịng gọi là “Sonnet d’Arvers”. Tác 
								giả Félix Arvers, thi sĩ duy nhất chỉ nổi tiếng 
								với bài thơ này khởi đầu bằng câu “Mon âme a son 
								secret, ma vie a son mystère” Khái Hưng dịch:
								
								Ḷng ta chôn một khối 
								t́nh 
								T́m trong phút giây mà thành thiên thu
								Dư luận Pháp đă từng sôi nổi ṭ ṃ thắc mắc t́m 
								hiểu: “Quelle est donc cette femme?” (Người đâu 
								tả ở mấy gịng thơ đây?) rốt cuộc đành có thái 
								độ tôn trọng niềm bí mật nên thơ thiên thu này.
								
								Ở Việt Nam, có lần người ta t́m hiểu tông tích 
								của cô bé 15 ngây thơ mà nhà thơ Nguyễn Nhược 
								Pháp (1914-1938) mô tả trong thiên kư sự thơ 
								Chùa Hương. Cuối bài thơ tác giả dí dỏm viết 
								thêm: “Thiên kư sự đến đây là hết. Tôi tin rồi 
								hai người lấy nhau, v́ không được lấy nhau th́ 
								cô bé c̣n viết nhiều. Lấy nhau là hết chuyện” [Ngày 
								Xưa, Hà Nội 1935]. 
							
								 
							
								NHƯNG SỰ THỰC TH̀ THẾ NÀO?
								Nói ra, nó quá bi thảm đến độ phũ phàng qua 
								sự tiết lộ của nhà văn Tchya Đái Đức Tuấn với 
								học giả Thái Văn Kiểm là Nguyễn Nhược Pháp chết 
								v́ buồn phiền lúc 24 tuổi (1938) v́ không cưới 
								được nàng, mặc dù yêu nhau tha thiết qua chuyến 
								đ̣ Hương Tích. C̣n “cô bé” không lấy chồng được 
								v́ dị tật sinh dục, nên tuyệt vọng phải tự trầm 
								quyên sinh ở hồ Hoàn Kiếm (Việt Nam Tinh Hoa – 
								Hương Giang Thái Văn Kiểm – 1997). 
								Thành ra, chúng ta phải chăng nên thận trọng và 
								đừng giết chất thơ của thi văn trong sự hăm hở 
								t́m hiểu ṭ ṃ tách bạch thực tế quá éo le trong 
								khi hoàn cảnh của người trong cuộc trong t́nh 
								thế “Dẫu ta đi trọn đường trần, chuyện riêng há 
								dám một lần hé môi!” Hé môi ra th́ chết! Ở trên, 
								tôi mạo muội gợi ư nên “trước bạ” câu chuyện 
								TTKH và hoa ti-gôn vào văn học sử Việt Nam. 
								Trước bạ là đăng kư hay ghi chép một cách chính 
								thức vào sổ bộ trong việc lập một tờ văn khế, 
								văn tự phân minh chứng nhận cái quyền sở hữu 
								thuộc về ḿnh một cách chính đáng một món ǵ. 
								Tôi nói như vậy là bắt chước lối nói của học giả 
								Phạm Quỳnh trong bài diễn văn lễ kỷ niệm Nguyễn 
								Du ngày mồng 8.9.1924 tại hội Khai Trí Tiến Đức, 
								Hà Nội: 
								Truyện Kiều là cái “văn từ” của giống Việt Nam 
								ta đă “trước bạ” với non sông đất nước này...
								Câu chuyện TTKH và hoa ti-gôn nên trước bạ vào 
								văn học sử Việt Nam v́ nhiều yếu tố hay lư do:
								
								Trước tiên, TTKH là một tâm hồn thơ duy nhất đem 
								gói ghém mảnh t́nh thiên cổ của ḿnh trong màu 
								sắc diễm tuyệt của các cánh hoa ti-gôn. Trước và 
								sau TTKH, không ai làm cả và vô t́nh làm một 
								cách để đời. Nói đến TTKH là nói đến sắc ti-gôn, 
								và ngược lại nói đến ti-gôn là nhớ đến t́nh TTKH. 
								Không ai dám ấm ớ dành vào lănh vực này. 
								Trong văn học, từng có nhiều trường hợp trước bạ 
								trứ danh, điển h́nh chuyện giai thoại thơ liên 
								quan với thảo mộc cỏ hoa như sau: 
								-Nh́n cảnh đào se sắt trong gió đông, hồn thơ 
								của ta bỗng thổn thức theo chàng Thôi Hộ đời 
								Đường. 
								-Ngắm đóa mai sáng sớm, người ta phải ngâm nga:
								
								Tiền đ́nh tạc dạ nhất 
								chi mai.
								-Nhắc đến cành liễu rũ, ư thơ xưa bỗng trở lại 
								với câu Kiều: 
								Khi về hỡi liễu Chương 
								đài – 
								Cành xuân đă bẻ cho người chuyên tay...
								Ở Việt Nam, ăn canh rau sắn Chùa Hương, ta phải 
								nhớ đến Tản Đà với giai thoại nữ sĩ Song Khê 
								thật lăng mạn, chỉ một bài thơ đăng báo tỏ ư 
								muốn ăn rau sắn chùa Hương, nhờ ai mua giùm mà 
								được giai nhân mua gửi qua bưu điẹn tới tay. Nói 
								đến tỉa thủy tiên, ta phải nhớ đến thi sĩ Lan 
								Sơn, tác giả của bài thơ “Vết Thương Ḷng”, 
								tương đương với bài thơ tựa đề “Le vase brisé” (Cái 
								b́nh vỡ) của Sully Prudhomme. 
								Điểm thứ hai hoa ti-gôn là hoa ǵ? Chắc không ai 
								bận tâm t́m hiểu gốc gác nó đâu? Ư nghĩa về vai 
								tṛ bối cảnh của nó ra sao? Hiểu được hoa ti-gôn 
								sẽ khiến ta phải trước bạ nó là một loài hoa của 
								thi văn. Cái tên ti-gôn nói lên nguồn gốc ngoại 
								lai của nó. Trước đây, có những thứ cỏ hoa cổ 
								điển đă đóng vai tṛ tượng trưng ước lệ trong 
								văn chương Việt Nam như cúc, đào, mai, sen, lư, 
								trúc, liễu...Tuyệt nhiên, không có ti-gôn là thứ 
								thảo mộc người Pháp mới du nhập vào đầu thế kỷ 
								20 như những hoa lai-ơn, hoa giấy, mimosa, cẩm 
								chướng (carnation hay oeillet). Bỗng thơ của 
								nàng TTKH kỳ bí thổi một luồng sinh khí cho hoa 
								ti-gôn qua những câu vụng dại trữ t́nh nhắc đến 
								“người ấy” của nàng: 
								Người ấy thường hay ngắm 
								lạnh lùng 
								Giải đường xa vút bóng chiều phong
								Và phương trời cát mờ sương cát
								Tay vít dây hoa trắng cạnh ḷng 
								Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
								Thở dài trong lúc thấy tôi vui 
								Bảo rằng hoa dáng như tim vỡ
								Anh sợ t́nh ta cũng thế thôi.
								[Bài Thơ Thứ Nhất]. 
								Tôi sợ chiều thu nắng phớt 
								mờ 
								Chiều thu hoa đỏ rụng chiều thu 
								Gió về lạnh lẽo chân mây trắng 
								Người ấy sang sông đứng ngóng đ̣ 
								Nếu biết rằng tôi đă có chồng 
								Trời ơi! người ấy có buồn không?
								Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ
								Tựa trái tim phai, tựa máu hồng!
								[Hai Sắc Hoa Ti Gôn].
								TTKH sáng tác cả thảy ba bài là Bài Thơ Thứ Nhất, 
								Hai Sắc Hoa Ti Gôn, Bài Thơ Cuối Cùng. Nhưng 
								riêng Bài Thơ Cuối Cùng bị nghi không phải do 
								TTKH v́ khi đăng báo không thấy đề TTKH, vả lại 
								“điệu thơ và chất thơ có vẻ không tự nhiên” (Trần 
								Tuấn Kiệt). Trong bài này, ta thấy không c̣n e 
								ấp nhắc đến chữ “người ấy” và xưng “tôi” nữa, 
								lại gọi thẳng là “anh” và xưng “em”, duy nhất 
								chỉ nói ở câu cuối rằng: “Mưa buồn, mưa hắt 
								trong ḷng ướt - Sợ quá đi anh...có một người!”. 
								Một điều đặc biệt, ti-gôn được gọi là “hoa máu”, 
								“hoa ḷng”! 
								Sau đây là vài điều tôi riêng t́m hiểu về hoa 
								ti-gôn mà tôi nghĩ rằng không đến nỗi vô bổ và 
								được thích thú theo dơi: Hoa ti-gôn là chữ 
								Antigône thường được gọi tắt ở miền Bắc và 
								Trung, trong Nam gọi nôm na “nho kiểng” (loại 
								dây leo, nhánh, phát hoa có ṿi ở chót, chùm kép 
								to, hoa 5 tai đỏ, ngoài 3 trong 2, tiểu nhị dính 
								nhau ở đáy, noăn sào 3 cánh, 3 ṿi, nhụy bế quả, 
								tên khoa học Antigonon Leptosus) [Việt Nam Tự 
								Điển, Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ]. 
								Ngoài ra, hoa ti-gôn c̣n vài chi tiết sau đáng 
								nói là nguồn gốc ở Mễ Tây Cơ, ở Mỹ nó mọc hoang 
								ở vùng sa mạc thấp tại California và Arizona, ở 
								Việt Nam mọc hoang tại Phan Thiết. Ti-gôn là 
								loại dây leo thường niên nhờ có củ to, ưa chịu 
								nóng mùa hè và thích nhiều nước. Vào mùa đông, 
								ti-gôn không chết, lá rụng nhiều, ngọn cây chết 
								nhưng phục hồi chóng. Về màu hoa, loại sắc đỏ 
								tươi thông thường, cũng có sắc trắng (Variety 
								Alba, Hort) đúng như TTKH tả. Dàn hoa ở trước 
								biệt thự nhà nàng vốn màu trắng:
								Thuở đó nào tôi có hiểu 
								ǵ 
								Cánh hoa tan tác của sinh ly 
								Cho nên cười đáp màu hoa trắng 
								Là chút ḷng trong chẳng biếng suy. 
								
								Nhưng rồi, nhân một hôm, TTKH đọc một chuyện 
								ngắn Hoa Ti-gôn của nhà văn Thanh Châu đăng trên 
								báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy tháng 9.1937 nàng mới 
								biết hoa ti-gôn trong truyện màu hồng, nên nảy 
								hứng sáng tác bài thơ bất hủ: 
								Buồn quá hôm nay xem tiểu 
								thuyết 
								Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa 
								Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ
								Và đỏ như màu máu thắm phai.
								Những bài thơ của TTKH đánh dấu cao điểm 
								phong trào dân Việt Nam ham đọc tiểu thuyết 
								không phải dịch của Tàu hay của Pháp mà do những 
								cây bút Việt Nam bắt đầu sáng tác mạnh trong 
								thập niên 30. Song hành với những sách của Tự 
								Lực Văn Đoàn có Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ, 
								Hoàng Đạo, Thạch Lam, Đổ Đức Thu…tờ Tiểu Thuyết 
								Thứ Bảy của nhà sách Tân Dân chủ trương do Vũ 
								Đ́nh Long in số đầu ngày 2.6.1934 cung cấp món 
								ăn tinh thần cần thiết này một cách phát đạt dễ 
								sợ, suốt trong 10 năm đă in mỗi số hàng chục 
								ngàn, phát hành khắp Bắc Trung Nam. Tờ Phổ Thông 
								bán nguyệt san cũng do nhà Tân Dân in cho đến 
								năm 1945 hàng trăm tác phẩm tiểu thuyết, khởi 
								đầu với truyện Tắt Lửa Ḷng của Nguyễn Công Hoan. 
								Trên hai tờ này, đă xuất hiện tên tuổi của Lan 
								Khai, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Tuân, Lê Văn Trương...
								Về hoa ti-gôn, một điểm đáng nói là vào mùa thu, 
								hoa rụng đầy mặt đất trông rất đẹp mắt giống xác 
								pháo hồng ngày cưới. Nhưng TTKH nh́n hoa ti-gôn 
								rụng lại buồn nhớ người xưa, điệu thơ của nàng 
								nghe như điệp khúc du đương dệt bằng những chữ 
								“thu” láy đi láy lại...
								Một mùa thua trước, mỗi 
								hoàng hôn 
								Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
								Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
								Tôi chờ người đến với yêu đương… 
								Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ
								Chiều thu, hoa đỏ rụng chiều thu
								Từ đấy thu về thu lại thu
								Ḷng tôi c̣n giá đến bao giờ 
								Mà từng thu chết, từng thu chết 
								Vẫn dấu trong tim một bóng người
								Tôi nhớ lời người đă bảo tôi 
								Một mùa thu cũ rất xa xôi... 
								Anh ạ, tháng ngày xa quá nhỉ
								Một mùa thu cũ rất xa xôi...
								Đọc TTKH, người ta có cảm giác buồn se sắt khi 
								nghe một khúc đại hồ cầm bi ai hay đọc lại những 
								bài “Giọt Lệ Thu” của nữ sĩ Tương Phố, hoặc 
								chứng kiến cảnh chôn hoa trong Tuyết Hồng Lệ Sử 
								của Từ Trẩm Á. 
								Một cao điểm cần ghi nhận trước bạ về thơ của 
								TTKH là TTKH đă vô t́nh đẩy tính chất lăng mạn 
								tiền chiến lên đến tuyệt đỉnh qua lối sử dụng 
								h́nh ảnh của hoa ti-gôn và mùa thu trong sự diễn 
								đạt tâm t́nh u tuẩn của ḿnh. Tính chất lăng mạn 
								này đă được thi sĩ Thế Lữ khai mào với h́nh ảnh 
								mùi mẫn sau trong bài Giây Phút Chạnh Ḷng, cảm 
								tác tặng tác giả cuốn tiểu thuyết Đoạn Tuyệt: 
								
								Rồi có khi nào ngắm bóng 
								mây
								Chiều thu đưa lạnh gió heo may 
								Dừng chân trên bến sông xa vắng
								Chạnh nhớ t́nh tôi trong phút giây. 
								
								H́nh ảnh ước lệ trong phong trào lăng mạn tiền 
								chiến là mùa thu, mùa ly biệt, người ra đi vào 
								nơi gió cát hay đứng đợi đ̣ sang sông, và người 
								ở nhà vịn cành hoa nhung nhớ. TTKH thuộc lớp trẻ 
								hơn trong thập niên 30 ở Việt Nam, theo trào lưu 
								nếp sống gia đ́nh tư sản chớm theo xu hướng Tây 
								học và quan niệm thẩm mỹ mới hơn với cảnh trồng 
								dàn hoa ti-gôn hay bông giấy trước cửa biệt thự, 
								nên TTKH không c̣n dịp vịn ngành mai, ngành đào 
								hay đứng dưới dàn hoa thiên lư cổ điển nữa. 
								Chứng tích của thời này trong thơ TTKH là hoa 
								ti-gôn, một loài hoa ngoại lai khá xa lạ với đại 
								chúng bính dân nhưng lại trở thành đặc trưng gói 
								ghém tâm t́nh lăng mạn Việt Nam thời thượng cho 
								giới thanh niên nam nữ đương thời. Cũng như 
								chứng tích sự suy tàn thê thảm của nền học thi 
								cử đă được hiện ra với những chữ “sâm banh, sữa 
								ḅ” trong thơ của Tú Xương: 
								Chi bằng đi học làm thông 
								phán 
								Tối rượu sâm banh, sáng sữa ḅ.
								
								Tuy nhiên, sự lăng mạn tiền chiến Việt Nam ít 
								nhiều cũng đă khai phóng tâm t́nh của giới trẻ 
								nhưng dù sao trên thực tế, c̣n bị g̣ bó trong 
								tinh thần Khổng Giáo, chưa đến nỗi đi đến sự 
								vùng lên chống đối nổi loạn, chỉ ẩn nhẫn chịu 
								đựng trong sự câm nín, ít xảy ra sự bỏ nhà hay 
								quyên sinh: 
								Ngang trái đời hoa đă úa 
								rồi 
								Từng mùa gió lạnh, sắc hương rơi 
								Buồng nghiêm thờ thẫn hồn eo hẹp 
								Để nhớ người không muốn nhớ lời !
								Theo tôi, cái lăng mạn của thơ TTKH tượng trưng 
								qua màu sắc ti-gôn rất đẹp và trong sáng, đẹp 
								chay tịnh, đẹp “platonic” (lư tưởng) đẹp một 
								cách tuyệt vọng, đẹp một cách man mác thiên thu 
								như thơ của Félix Arvers hay như bài thơ bất hủ 
								của Trung Hoa về hoàn cảnh một thiếu phụ đoan 
								chính có chồng đă đầm đ́a nước mắt đưa trả cặp 
								ngọc sáng lại cho chàng trai ngỏ ư thương ḿnh 
								một cách trễ tràng...và chỉ nói: “Hận bất tương 
								phùng vị giá th́ !” ư thơ ca dao Việt Nam: “Sao 
								anh không hỏi những ngày em c̣n không!”
								Câu chuyện thơ của TTKH và hoa ti-gôn đáng được 
								“trước bạ” trong văn học sử Việt Nam như một vật 
								trân quí. Nhờ thơ của một cô bé Việt Nam lần đầu 
								biết yêu, loài hoa ti-gôn Tây phương lạ hoắc 
								bỗng lưu danh trong ḷng yêu thơ của một thế hệ 
								Việt với những mệnh danh biểu trưng sinh động 
								như
								-Hoa của chung t́nh hay một “chút ḷng trong 
								chẳng biến suy”. 
								-Hoa của sự “tan tác sinh ly”. 
								-Hoa của dang dở thầm kín hay “tựa trái tim phai, 
								tựa máu hồng”. 
							
								Hoa ti-gôn nguyên tên Tây phương là Antigône, ta 
								gọi gọn là ti-gôn. Nó c̣n mang nhiều tên khác 
								rất đẹp tùy theo địa phương xứ sở như: -Tràng 
								hoa vương miện của Nữ Hoàng (Queen’s Wreath). 
								-Hoa hồng của vùng Montana (Rose de Montana).Tên 
								Mỹ thông dụng Coral Vine (dây leo san hô). Đặc 
								biệt theo sách Cây Cỏ Việt Nam của Phạm Hoàng Hộ, 
								ti-gôn c̣n được gọi là “Dây Hiếu Nữ” hay là “Hoa 
								Nho”.