“Métropole” không
phải là khách sạn ra đời sớm nhất nhưng chắc
chắn là khách sạn có truyền thống lâu bền và
tiêu biểu nhất gắn với Hà Nội. Buổi đầu Tây
chiếm đóng, một số quán trọ đă xuất hiện tập
trung bên Bờ Hồ và dọc Phố Paul Bert (nay là
Tràng Tiền).
Ở Sài G̣n, chỉ một năm
sau khi buộc nhà Nguyễn “nhượng đất”, viên Phó
đô đốc thực dân Lagrandière đă ban hành quyết
định thành lập một Vườn Bách Thảo và Bách Thú
vào ngày 10/6/1863. C̣n ở Hà Nội, một khu vườn
tương tự được khởi công vào năm 1890, tức là chỉ
2 năm sau khi Hà Nội được vua Đồng Khánh trao
cho Pháp làm thành phố nhượng địa.
Ban đầu nó chỉ là một
vườn thí nghiệm, được trao cho một viên dược sĩ
hải quân biệt phái về Sở Nông lâm để nghiên cứu
phương thức di thực các loại thảo mộc từ nước
ngoài, nhất là từ các thuộc địa châu Phi qua để
bổ sung cho các loại cây trồng đô thị và phát
triển trồng trọt Dần dà cùng với các giống cây,
ngày một phong phú là một số thú nuôi thích hợp
như hươu nai, đặc biệt thu hút người xem là gấu,
cọp và voi cùng nhiều loại chim muông nên vườn
c̣n đựoc gọi là Bách Thú.
Đền hàng hoa
Ban đầu, khu vườn cây
trồng và nuôi chim thú này chỉ là một cảnh quan
hỗ trợ cho không gian của Phủ Toàn quyền Đông
Dương, trên đất của các làng Ngọc Hà, Hữu Tiệp
và Khán Xuân.
Không gian này bao lấy
môt g̣ núi đất nhỏ mà dân vẫn quen gọi là Núi
Nùng, nhưng tên dân gian của nó là Núi Sưa v́
trên đó mọc nhiều loại cây này. Trên lưng núi,
lại có đền thờ Huyền Thiên Hắc Đế, tương truyền
là người giúp nhà Lư đánh giặc phương Nam, nên
được phong làm thành hoàng của mấy làng trong
khu vực. Ngay chân núi lại có mấy hồ nước hơn
hẳn vườn ở Sài G̣n. Ở đây từng có một ngôi “đền
Hàng Hoa” rất đẹp.
“Vui nhất là Chợ Đồng
Xuân
Thức ǵ cũng có xa gần bán mua”
Câu ca dao này hẳn ra đời
muộn hơn năm 1888 là thời điểm chính quyền Pháp
bắt tay vào quản lư Hà Nội như một thành phố
“nhượng địa” và ngày 6/4/1888 đă kư một quyết
định thành lập một ngôi chợ mới.
Chợ Đồng Xuân được lắp đặt bằng khung
thép và lợp mái tôn
Hồi xưa, đồng hồ c̣n là
vật dụng hiếm quư nên Hà Nội chỉ có dăm cái đồng
hồ công cộng để báo giờ cho dân chúng. Tuy
nhiên, chỉ duy nhất một cái đặt chơ vơ giữa
khoảng không gian rộng, trên một cái cột gang,
tựa như những cột đèn khá phổ biến đương thời.
Hoàng thành Thăng Long
qua các triều đại có thể to nhỏ khác nhau, ṿng
thành có thể rộng hẹp khác nhau, nhưng trên trục
hoàng đạo nối từ Cửa Bắc đến Cửa Nam có một địa
điểm không khi nào thay đổi, đó chính là Điện
Kính Thiên.
Một góc điện Kính
thiên-Công tŕnh pḥng thủ của quân Pháp
Những nhịp cầu rất đặc
trưng in trên nền trời giúp chúng ta dễ dàng
định vị được con đường được chụp trên tấm ảnh
này. Người Pháp gọi chung con đường chạy dọc bờ
sông Hồng này là “Quai de Commerce” (Kè Thương
mại). Hăy để ư lúc này chưa có đê dọc Sông Hồng.
Phố hàng Đào. Rue de la
Soie – tên gọi chính thức bằng tiếng Pháp trong
bản đồ hành chính thành phố Hà Nội – đủ để giải
thích tên gọi “Hàng Đào”. Đây chính là phố bán
các loại vải vóc, tơ lụa mà có lẽ là loại vải
màu điều (đào/đỏ).
Ngôi nhà ngoài cùng bên
phải ảnh chính là nhà số 4 nơi cư trú của gia
đ́nh cụ Cử Lương Văn Can. Ngôi nhà 2 tầng có lan
can màu trắng cách 2 ngôi nhà tiếp theo là nhà
số 10 nơi mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục.
Điểm rẽ của 2 tuyến xe điện, một đi
thẳng vào Hàng Đào đi tiếp tới Chợ Đồng Xuân;
một rẽ trái theo phố Hàng Gai lên Cửa Nam.
Mă Mây xưa kia là 2 phố
với hai đặc trưng hàng nghề là Hàng Mây ở đoạn
gần Hàng Buồm và Hàng Mă Vĩ ở đoạn sát Hàng Bạc.
Người Pháp gọi tên phố Mă
Mây là Phố quân Cờ Đen để ghi nhận nỗi kinh
hoàng của cả Tây lẫn ta với đám quan quân đến từ
Phương Bắc hoành hoành và từng trú quân tại đây.
Nếu chọn một công tŕnh kiến trúc nào
xưa nhất, lại ít thay đổi nhất của Hà Nội c̣n
lại cho đến nay th́ đó chính là Nhà Thờ Lớn Hà
Nội.
Nhà Thờ Lớn được khởi
công vào năm 1884 và khánh thành kịp vào dịp Lễ
Thiên Chúa giáng sinh năm 1887. Kể từ đó cho đến
nay, kiến trúc dường như không thay đổi. Xem các
tấm h́nh cách đây đă trên dưới một thế kỷ th́
thấy rơ điều ấy. Có chăng là sự thay đổi cảnh
quan và con người mà thôi.
Nhờ cuộc xổ số năm 1884 thu đuợc 10 vạn
đồng, Nhà thờ Thánh Joseph đă được khởi công
ngay trong năm đó và được xây dựng như diện mạo
ngày nay và được khánh thành ngày 23/12/1887,
một ngày trước dịp Thiên Chúa giáng sinh.
Phố Cầu Gỗ rất gần Hồ
Gươm nhưng bị khuất bởi một dẫy phố nằm kế bên
Hồ, có một lối thông sang hồ cũng được coi là
một phố (phố Hoàn Kiếm) và đó chính là vị trí
của một chiếc cầu làm bằng gỗ bắc qua một con
lạch nối Hồ Hoàn Kiếm với một hồ nước không nhỏ
có tên là “Thái Cực”, sau khi bị lấp đă trở
thành không gian của các phố nằm phía sau dẫy
nhà lẻ của phố Hàng Đào (khu vực nay là chợ Hàng
Bè).
Cảnh quan Hồ Gươm nh́n từ
bờ phía Đông. Ḍng lưu bút ghi bên lề tấm bưu
ảnh (ngày 10/11/1902) cho biết tấm h́nh này phải
được chụp trước thời gian nó được in thành bưu
ảnh và được một khách hàng sử dụng.
Cầu Doumer, nay gọi là Cầu Long Biên
khai thông từ năm 1902. Nhưng thưở đầu, mối quan
tâm của nhà đầu tư chưa phải ưu tiên giành cho
Hà Nội mà tuyến đường sắt chạy từ Cảng Hải Pḥng
chỉ vượt con Sông Cái (hay Sông Hồng) để đi
thẳng lên Vân Nam xâm nhập vào thị trường vùng
Tây Nam của cái quốc gia khổng lồ mà tất cả các
đế quốc Âu Tây đang mong ước đựợc dự “bữa cỗ
Trung Hoa”.
Ga Đầu Cầu tuy nhỏ nhưng
đẹp và tiện lợi cho khách nhờ có 2 lối lên
Tại Hotel Grand Café đă có những buổi
chiếu bóng đầu tiên rồi dần dần mới ra rạp
chuyên cinéma.Bộ phim đầu tiên có tên là “Thần
Cọp” và được tŕnh chiếu vào 8/1920.Tại phố
Nguyễn Xí, có một cái cổng nhỏ đi vào một rạp
chiếu phim lấy tên là Palace.
Nếu như rạp chiếu bóng lớn nhất và cũng tồn tại
tương đối lâu bền nhất là Rạp Palace trên đường
Paul Bert (nay là rạp Công nhân trên phố Tràng
Tiền), chuyên chiếu các bộ phim do Hăng Gaumont
sản xuất, th́ sau đó không lâu, một rạp chuyên
chiếu phim của Hăng Pathé cũng xuất hiện tại khu
đất trống bên cạnh đền Bà Kiệu, trước cửa đền
Ngọc Sơn.
Năm 1918, Trường nữ Sư phạm Hà Nội được
thành lập, lúc đầu học ở Hàng Vôi sau chuyển ra
Ḷ Đúc. Năm 1925, trường đổi thành Nữ Trung học
Hà Nội (Collège des Jeunes Filles) ở phố Félix
Faure (nay là Bộ Tư pháp ở phố Trần Phú). Địa
điểm này bị Tây lấy làm Trường Nữ Trung học
Pháp, đổi lại cho xây Trường Nữ Trung học Việt
Nam ở phố Hàng Bài.Nay là trường THCS Trưng
Vương.
Tại ngă sáu, nơi giao nhau của nhiều
đường phố: Hàng Than, Quán Thánh, Phan Đ́nh
Phùng, Hàng Lược, Hàng Giấy và Hàng Đậu có một
công tŕnh xây dựng khá độc đáo, lúc nào cũng
đóng cửa kín mít.
Tường của công tŕnh này
xây bằng đá hộc, những chấn song sắt và những
ṿm cửa sổ, cùng cái mái tôn của một toà tháp
cao tới 25 mét tính đến chóp, gây cảm giác nặng
nề như chốn ngục thất đầy bí ẩn.
Nhưng thực ra đó chỉ là
một tháp nước (chateau-d’eau) trong kết cấu của
hệ thống cung cấp nước cho đô thị được xây dựng
từ cuối thế kỷ XIX. Có lẽ do trục đường huyết
mạch từ cầu Doumer (Long Biên) trực chỉ vào khu
thành cổ là nơi đóng binh và đầu năo bộ máy cai
trị của người Pháp, nên người ta quen gọi đây
là “tháp nước Hàng Đậu”.
Sách “Đại Nam nhất thống
chí” của triều Nguyễn đă xác định “Phố Đông Hà
bán chiếu trơn”. Đông Hà là tên gọi cái cửa ô mà
con đường này từ trong phố đi ra sông Hồng, cái
cửa ô này dân thường gọi quen hơn là Ô Quan
Chưởng. Đúng là thời xa xưa ở đây có bán chiếu
cói nên người Pháp cũng từng định danh là “Rue
des Nattes en joncs” ( Phố chiếu cói).
“Hàng Chiếu” có lẽ là
cách định danh đúng hơn cả nếu so với 2 cái tên
đă từng có, một do Tây đặt là “Jean Dupuis” và
một theo cách gọi của dân là “Phố Mới”.
Cho đến nay cái từ “Ngang” của phố Hàng
Ngang vẫn là một câu hỏi về ngữ nghĩa v́ nó
không phải là một sản vật như các “hàng” khác
(như “Hàng Đường, Hàng bạc, Hàng Muối trắng
tinh”).
Có nhà nghiên cứu liên
tưởng đến một địa danh khác của Hà Nội là phố
“Đ́nh Ngang” vốn là con đường cửa ngơ đi vào
trong thành qua cửa phía Tây Nam, v́ thế có một
cái đ́nh được dựng ngang đường cho một đám quan
quân đồn trú để tiện bề kiểm soát người qua lại.
Hàng Đường là cái tên có
từ trong ca dao xưa và không bị thay đổi, có
chăng thêm cái tên phố Cầu Đông, khi có một
chiếc cầu đá bắc ngang con sông Tô Lịch. Sông Tô
Lịch hồi chưa bị lấp chảy dài từ Hàng Lược qua
Hàng Cá, dọc Ngơ Gạch ra sông Hồng đoạn cuối Mă
Mây.
Cũng v́ có cây cầu đó mà
không gian cận ảnh của tấm h́nh này xưa kia
chính là Chợ Cầu Đông. Sông lấp rồi, cầu không
c̣n, để khai thông con đường từ Bờ Hồ ra Hàng
Đậu – là điểm giao với con đường khá quan trọng
từ Cầu Sông Cái đi vào khu Thành cổ – nên chợ
Cầu Đông xưa mới dịch chuyển sang một bên đường
để lập ra cái chợ to và lấy tên hàng tổng là
Đồng Xuân.
Trường đua ngựa mà nhiều
người hay gọi là sân Quần ngựa ở Hà Nội có từ
rất sớm. Cuốn “Le Vieux Tokin” (Bắc kỳ xưa) cho
biết cuộc đua ngựa đầu tiên ở Hà Nội diễn ra
ngày 15/7/1886 trong khuôn khổ những hoạt động
mừng Quốc khánh Mẫu quốc năm ấy của đạo quân
chiếm đóng và phải 2 năm sau (1888) Tourane (Đà
Nẵng) và Nam Định mới có nơi đua ngựa…
Nếu bạn đến rạp xiếc Hà
Nội hiện đặt tại khu vực Công viên Thống nhất,
bạn có thấy một đôi tượng sư tử bằng đồng rất
đẹp. Đó chính là dấu tích c̣n lại duy nhất (!?)
của một công tŕnh kiến trúc rất đẹp mà thoạt
nh́n nhiều người ngỡ tưởng nó ở xứ sở xa xôi nào
đó bên châu Âu.
Toà nhà do kiến trúc sư
Bussy thiết kế . C̣n cuộc Đấu xảo năm 1902 được
khánh thành vào ngày 16-11-1902.Toà kiến trúc đă
biến mất sau trận ném bom của máy bay Đồng Minh
(Mỹ) vào thời kỳ phát xít Nhật đang chiếm đóng
nước ta trong thời Đê nhị Thế chiến. Hai bức
tượng đồng là phần duy nhất không bị bom đạn huỷ
hoại.
Các cuộc “đấu xảo” được
tổ chức tại Hà Nội từ cuối thế kỷ XIX, nhưng
cuộc “Đấu Xảo-1902” được coi là đặc săc nhất
không chỉ là sự kiện diễn ra vào đầu thế kỷ mới
(XX) mà năm đó c̣n diễn ra một sự kiên trọng đại
là khánh thành chiếc cầu thép khổng lồ bắc qua
sông Hồng nối đường xe lửa từ Hải Pḥng đến Hà
Nội và ngược lên phía bắc để tới vùng Vân Nam
của Trung Quốc.
Trường Bảo hộ, nay là trường THPT Chu
Văn An. Từ đây đă sản sinh ra những tên tuổi như
Dương Quảng Hàm, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Mạnh
Tường, Hoàng Xuân Hăn, Tôn Thất Tùng, Tạ Quang
Bửu, Vơ Nguyên Giáp, Ngô Gia Tự, Phạm Văn Đồng…
Nhiều người nh́n tấm ảnh
này đều dễ dàng nhận ra bức tượng “Nữ thần Tự
do” đă quá quen thuộc, sừng sững ở cửa ngơ TP
New York của Hoa Kỳ… Bức tượng trong ảnh này
đúng là Tượng nữ thần Tự do, nhưng rơ ràng là nó
nhỏ hơn, lại nằm trên một đường phố của Hà Nội.
Với những người từng sống
ở Hà Nội trước ngày Nhật đảo chính Pháp
(9/3/1945) th́ vẫn có cơ hội trông thấy bức
tượng này, được dựng tại Vườn hoa Neyret (nay là
Cửa Nam) ngay đầu phố Hàng Bông và nh́n sang
đường Cấm Chỉ.
Tượng Công lư, thường
được dân gian gọi là tượng Bà Đầm X̣e.