Trong lịch sử
nước nhà có gần 30 trường hợp các ông vua lên ngôi khi c̣n là trẻ con. Làm vua
như vậy sướng hay khổ?
Triều Đinh
Ông vua trẻ con đầu tiên trong lịch sử phong kiến nước ta là Đinh Toàn (974
– 1001) lên ngôi khi 6 tuổi. Đinh Toàn “làm vua” từ tháng 10 năm trước đến
tháng 7 năm sau, chưa đầy 1 năm với đế hiệu là Đinh Phế Đế. Sau khi Lê Hoàn
lên ngôi, Đinh Toàn được trở lại với tước hiệu Vệ Vương. Năm Tân Sửu 1001,
trong dịp cùng vua Lê Đại Hành (tức Lê Hoàn) đi dẹp loạn Cử Long thuộc vùng
Cẩm Thủy, Thanh Hóa, Đinh Toàn bị trúng tên, mất năm 27 tuổi. Trong Đại Việt
sử kư toàn thư lại ghi Đinh Toàn mất khi 18 tuổi, tức năm 991.
Triều Lư
– Lư Nhân Tông (1066 – 1127), là vị vua thứ tư của triều Lư, con trai duy
nhất của vua Lư Thánh Tông và Ỷ Lan phu nhân tức Linh Nhân hoàng hậu. Tên
thật của ông là Lư Càn Đức.
Năm 1072, Thánh Tông mất, Càn Đức mới 6 tuổi lên nối ngôi, tức là vua Lư
Nhân Tông. Ông là vị vua chú trọng về văn hóa, giáo dục, mở các cuộc thi kén
chọn nhân tài, và đặc biệt ưu đăi, trọng vọng các bậc thiền sư thạc đức. Năm
Ất Măo (1075) vua cho tổ chức một khoa thi Tam trường, là khoa thi chọn
người giỏi đầu tiên ở nước ta.
Tiếp liền năm sau (1076), vua cho lập Quốc tử giám và bổ nhiệm những người
khoa bảng văn học vào dạy.
– Kế vị Lư Nhân Tông là Lư Thần Tông(1116 – 1138), tên thật là Lư Dương
Hoán, là vị vua thứ năm của nhà Lư, trị v́ từ năm 1127 đến năm 1138, tức là
lên ngôi năm 11 tuổi. Lư Thần Tông là con trai của Sùng Hiền hầu – em trai
của vua Lư Nhân Tông, tức là cháu gọi Nhân Tông bằng bác.
Có ư kiến cho rằng Lư Thần Tông là hậu thân của thiền sư Từ Đạo Hạnh. Sách
Đại Việt Sử kư Toàn thư, quyển III ghi lại việc Từ Đạo Hạnh thoát xác tại
chùa núi Thạch Thất năm 1116, ngay trước khi Lư Dương Hoán ra đời. Người ra
cho rằng v́ Lư Nhân Tông không có con nên Từ Đạo Hạnh đầu thai làm con trai
Sùng Hiền hầu để duy tŕ sự nghiệp của nhà Lư.
Thời Thần Tông nhân dân no đủ, nhưng ông cũng chỉ trị v́ được 10 năm, mất
khi c̣n trẻ, mới 23 tuổi.
– Đời thứ sáu là vua Lư Anh Tông (1138-1175) lên ngôi khi mới 3 tuổi. Vua
c̣n nhỏ, Lê Thái hậu nắm quyền nhiếp chính tư thông với Đỗ Anh Vũ làm triều
chính đảo điên. Nhờ có các trọng thần như Tô Hiến Thành ra công gánh vác,
nếu không triều đ́nh đă đổ nát. Anh Tông làm vua được 37 năm, mất năm 40
tuổi.
– Vua Lư Cao Tông (1173 – 1210), tên húy là Lư Long Trát, c̣n có tên khác là
Lư Long Cán, lên ngôi năm 3 tuổi. Khi c̣n nhỏ, Cao Tông tỏ ra ngoan hiền,
chăm học hỏi, nhưng khi lớn lên không c̣n sự quản thúc của Tô Hiến Thành
nữa, ông trở nên ăn chơi vô độ, tin cậy bọn hoạn quan, nhân dân đói khổ, nổi
dậy khắp nơi.
– Đời vua cuối cùng của triều Lư là một nữ hoàng duy nhất trong lịch sử nước
ta: Lư Chiêu Hoàng (1218-1278) lên ngôi khi mới 7 tuổi.
Như vậy, triều Lư có 9 đời vua th́ đă có tới 5 vị (chiếm hai phần ba) lên
ngôi ngay từ khi c̣n ở tuổi thiếu niên, nhi đồng.
Triều Trần
– Mở đầu triều Trần là một ông vua trẻ con nổi tiếng: Trần Thái Tông (Trần
Cảnh) (1218-1277). Lên 7 tuổi được đưa vào cung làm hầu cận nữ hoàng đế Lư
Chiêu Hoàng, lên 8 tuổi được lấy nữ hoàng làm vợ và được nhường ngôi báu.
– Vua Trần Minh Tông (1300-1357) lên ngôi lúc 14 tuổi. Đấy cũng là do vua
cha Trần Anh Tông sớm nhường ngôi. Trần Minh Tông tính t́nh nhân hậu, biết
trọng người tài. Theo truyền thống, năm 29 tuổi ông đă nhường ngôi cho con.
– Trần Hiến Tông (1319 – 1341) được vua cha nhường ngôi ngay khi mới lên 10
tuổi. Việc triều chính vẫn do thượng hoàng điều khiển. Hiến Tông mất sớm,
khi mới 23 tuổi.
– Người kế vị Hiến Tông là Trần Hạo, con của thượng hoàng Minh Tông, mới lên
5 tuổi, đế hiệu là Trần Dụ Tông (1336 – 1369). Dụ Tông thông minh, có học
vấn, buổi đầu lại được những trung thần có tài giúp giập, nên chính sự tốt
đẹp. Nhưng quăng đời về sau lại bị bọn gian thần lũng đoạn. Bởi vậy, sau khi
Dụ Tông mất (ở ngôi 28 năm, thọ 34 tuổi), triều đ́nh hỗn loạn, nhà Trần suưt
rơi về tay Dương Nhật Lễ.
– Trần Thuận Tông (Trần Ngung) (1378 – 1398) là vua thứ 11 triều Trần lên
ngôi khi 11 tuổi. Vua chỉ làm v́ mọi quyền lực đều nằm trong tay Hồ Quư Ly.
Làm vua được 10 năm, 1 năm đi tu và bị Hồ Quư Ly giết năm 22 tuổi.
– Trần Án tức Trần Thiếu Đế, 3 tuổi lên nối nghiệp Thuận Tông năm 1398,
nhưng chỉ ba năm sau – 1400 th́ bị Hồ Quư Ly bức phải nhường ngôi. Nhà Trần
mất về tay nhà Hồ.
Triều Trần có lệ, vua cha khi c̣n sống đă truyền ngôi cho con và ḿnh lên
làm thượng hoàng, v́ vậy các vua Trần đều lên ngôi khi tuổi c̣n trẻ. Tuy
nhiên, có tới 6 vị vua tuổi thiếu niên hầu hết được đặt lên ngai vàng trong
t́nh thế bất thường.
Thời Lê Sơ
– Lê Thái Tổ băng hà khi 49 tuổi, Lê Thái Tông lên nối nghiệp năm 11 tuổi,
tự điều hành mọi công việc, được sử gia khen là “vua thiên tư sáng suốt, nối
vận thái b́nh”. Vua chết đột ngột khi mới 20 tuổi.
– Thái tử Bang Cơ (Lê Nhân Tông), lên ngôi khi mới 2 tuổi. 12 tuổi vua đă tự
điều hành triều chính. Ông bị người anh là Nghi Dân sát hại năm 19 tuổi.
– Lê Ư được đưa lên làm vua Lê Chiêu Tông khi 11 tuổi trong bối cảnh đất
nước loạn lạc. Triều chính nằm trong tay Mạc Đăng Dung. Lê Chiêu Tông ngầm
mưu triệt hạ phe cánh họ Mạc, việc bị lộ, vua bị giết khi mới 21 tuổi.
– Em của Chiêu Tông là Lê Xuân được lập lên làm vua Lê Cung Hoàng khi 15
tuổi. Năm 21 tuổi, ông bị Mạc Đăng Dung bức tử.
Triều Lê Sơ do vua Lê Thái Tổ lập ra kéo dài 99 năm, trải qua 10 đời vua th́
đă có tới 4 vị lên ngôi khi c̣n ở độ tuổi thiếu nhi.
Thời Lê Trung hưng
– Lê Trung Tông là con trai của Lê Trang Tông lên kế vị khi 15 tuổi, đóng đô
ở Tây Đô để chống nhau với nhà Mạc ở Đông Đô. Trang Tông là người khoan
dung, thông tuệ, nhưng mọi việc đều do Trịnh Kiểm quyết. Trung Tông mất năm
22 tuổi, chưa có con.
– Lê Duy Đàm (Lê Thế Tông) được tôn lên ngôi vua vào tuổi lên 7. Nhà Mạc bị
đánh bại, chạy lên Cao Bằng. Lê Thế Tông được đón về Thăng Long, nhưng quyền
lực vua Lê bị thu hẹp bên cạnh sự bành trướng của phủ chúa. Lê Thế Tông mất
năm 33 tuổi.
– Tiếp theo là Lê Kính Tông được Trịnh Tùng lập lên làm vua năm 11 tuổi. Khi
trưởng thành, thấy thế lực chúa Trịnh lấn át quá đáng, Lê Kính Tông mưu giết
Trịnh Tùng. Việc không thành, chính nhà vua bị bức thắt cổ chết.
– Lê Thần Tông lên ngôi năm 12 tuổi. Năm 36 tuổi ông nhường ngôi cho con,
lên làm Thái thượng hoàng. Con chết sớm lại được chúa Trịnh “vời” lên làm
vua một lần nữa.
– Lê Chân Tông, con trưởng của Thần Tông, lên ngôi năm 13 tuổi. Ngồi ngai
vàng được 6 năm th́ bị bệnh mất.
– Lê Huyền Tông, con thứ hai của Lê Thần Tông, sau khi cha chết, lên nối
ngôi khi mới 9 tuổi. Và cũng mất sớm vào tuổi 18.
– Lê Gia Tông, cũng là con thứ của Thần Tông, làm vua khi 12 tuổi, ở ngôi 3
năm rồi mất.
Qua 16 đời vua Lê Trung hưng cũng có tới 7 đời “vua trẻ con”, trong đó một
số chết yểu.
Triều Nguyễn
Nhà Nguyễn tồn tại 143 năm truyền được 13 đời vua. Các vị “vua trẻ con” đều
rơi vào thời kỳ Pháp đô hộ.
– Khi Tự Đức chết, triều thần lần lượt chọn Ưng Chân lên làm vua (Dục Đức),
rồi đến Hồng Dật (Hiệp Ḥa) nhưng đều bị phế. Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất
Thuyết lập Ưng Đăng lên ngôi vua (Kiến Phúc) năm 14 tuổi. Kiến Phúc làm vua
được 8 tháng th́ bị đầu độc chết.
– Hàm Nghi (Ưng Lịch), vua thứ 8 nhà Nguyễn, được lên ngôi năm 13 tuổi. Hàm
Nghi không được Pháp phê chuẩn. Vua bị Pháp bắt khi 17 tuổi và bị đưa đi đầy
sang Angiêri.
– Vua Thành Thái (Bửu Lân) được lập lên làm vua năm 10 tuổi. Đây là ông vua
yêu nước, thương dân, có ư chí chống Pháp. Chính v́ vậy, ông bị chính quyền
Pháp và Nam triều bù nh́n ép phải thoái vị năm 28 tuổi và bị đi đày ở đảo
Reunion.
– Vua Duy Tân (Vĩnh San) được Pháp đưa lên ngai vàng khi mới 8 tuổi. Không
dụ dỗ mua chuộc được vua, thực dân Pháp bắt ông đi đầy ở đảo Reunion cùng
với vua cha.
Vua Duy Tân (1900-1945, lên ngôi năm 1907). |